✨Ba tầm
nhỏ|[[Áo ngũ thân và nón ba tầm, trên 1 bưu thiếp năm 1904]] [[Họa phẩm của người Tây dương thế kỷ XIX mô tả người đàn bà Bắc Kỳ đội nón ba tầm.]]
Nón Ba tầm (Nôm: 𥶄𠀧尋) là vật dụng thời trang hoặc che nắng mưa của nữ giới miền Bắc Việt Nam.
Vào thế kỷ XX, ba tầm ít được sử dụng hơn và thường chỉ xuất hiện trong các lễ hội.
Đặc trưng
Nón ba tầm được lợp bằng lá cọ hoặc gồi, có hình dạng như cái lọng hoặc tai nấm, đỉnh phẳng, đường kính nón khoảng 70–80 cm, vành cao 10–12 cm hoặc hơn. Lòng nón đính một cái vành hình phễu gọi là khùa hoặc khua (摳) để gia cố nón trên đầu người sử dụng. Ngoài ra, người ta thường kết vào vành nón đôi chùm chỉ thao sặc sỡ để làm duyên, là nón quai thao (𥶄乖絛). Nón ba tầm đôi khi cũng gọi là nón thúng, nhưng nón thúng có dáng rộng hơn nón ba tầm, cong mềm mại hơn, vành tròn sâu và lòng sâu hơn. Nón nghệ cũng tương tự nón ba tầm, nhưng có vành nón được làm từ lá nghệ, có màu vàng sẫm, rất đẹp và bền.
Sách Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, nón ba tầm được kết hợp kiểu dáng của các thứ nón dâu, ngoan xác và viên cơ.
- Ngoan xác lạp(黿殼笠)(nón mền giải蟹,Tam Giang lạp三江笠)dùng cho người già thời Lê trung hưng,đã thất truyền cuối thế kỷ XVIII
- Toan bì lạp(酸皮笠)(nón vỏ bứa)dùng cho người nghèo,là nón giản lược làm cho thấp đi từ ngoan xác lạp.Thời Nguyễn,gọi là Thủy Thủ lạp
- Cổ Châu lạp(古洲笠)(hoặc nón Dâu)(_Les chapeaux des brus)_
_dùng cho Họ hàng nhà quan mà cao tuổi,Đàn ông,đàn bà,sĩ thứ trong kinh thành._Đỉnh nhọn và có vành phẳng đính đôi chùm chỉ thao. - Viên cơ lạp(圓箕笠)xuất hiện ở miền Thanh Nghệ.Thời Lê,dùng cho quân sĩ khi cuộc Loạn kiêu binh với dáng cao,gần giống như cái nia thóc(kết cấu gần mũ quan Đại Thanh).Thời Nguyễn,giản lược thành nón nhỏ như nón thúng nhưng vát vuông góc,nhỏ hơn ba tầm gọi là nón nghệ (le chapeau de Nghệ-an)dành cho nữ.Nón thúng(mục đồng lạp,Chapeau en forme de panier)dùng cho nam nữ làm đồng có dáng vát thon vào so với nón nghệ
Nhật dụng thường đàm và Đại Nam quốc ngữ có từ nhược lạp篛笠