✨Chính sách Hoa kiều thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam
Chính sách Hoa kiều thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam là đường lối cưỡng bách hội nhập thiểu số người Hoa ở Miền Nam Việt Nam thời Đệ nhất Cộng hòa 1955-1963.
Bối cảnh
Sau khi thành lập nền Cộng hòa phía nam vĩ tuyến 17, chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm chủ trương củng cố tinh thần quốc gia độc lập bằng cách đề cao quốc học trong ngành giáo dục và văn hóa, hạn chế quyền lực kinh tế của các nhóm ngoại kiều, và áp đặt bổn phận công dân với mọi giáo phái, sắc tộc và đoàn thể chính trị.
Có nhóm như Bình Xuyên thì bị triệt hạ bằng quân lực; Pháp kiều thì bị đẩy lui bằng ngoại giao còn Hoa kiều, tuy chỉ hơn một triệu người nhưng vì họ thâu tóm điểm nòng cốt của nông thương nghiệp quốc gia lại có móc nối khả nghi với ngoại quốc nên chính phủ chủ trương dùng pháp luật và biện pháp kinh tế để đặt nhóm này vào vòng kiểm soát. Mục đích trên được thực hiện qua một loạt đạo luật, tuy không nêu danh Hoa kiều có ảnh hưởng nhiều nhất với thiểu số người Hoa tại Việt Nam.
Thực hiện
Giáo dục
Về giáo dục văn hóa thì kể từ năm 1956 chính phủ bắt buộc các trường sở phải dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ. Trước đó dưới thời Pháp thuộc thì trường người Hoa dạy bằng kuoyu (tiếng Quan thoại) và hai ngoại ngữ là tiếng Anh cùng tiếng Pháp. Họ không dạy tiếng Việt. Từ năm 1956 trở đi mới có lớp tiếng Việt ở trường người Hoa. Vì không thể thay đổi ngay, chính phủ gia hạn cho đến năm 1958 thì sẽ áp dụng đồng bộ đưa tiếng Việt vào học trình toàn cấp tiểu học; cấp trung học trở lên thì thi hành từng bước một. Đợt thi tiểu học nếu trượt quốc văn tiếng Việt thì học sinh không được lên lớp vào trung học. Tổng cộng có 162 trường người Hoa với 74 trường tập trung ở Đô thành Sài Gòn.
Luật pháp mới cũng đòi các hiệu trưởng trường người Hoa phải là người Việt, hay ít ra cũng là người sinh ra tại Việt Nam, không được bổ nhiệm hiệu trưởng ngoại kiều. Đối với giáo viên người Hoa thì chính phủ mở khóa học tiếng Việt sáu tháng cấp tốc để bổ túc khả năng giảng dạy Việt ngữ. Theo định nghĩa thì kiều dân là người ở tạm, giữ quốc tịch nguyên quán nên Hoa kiều là người Tàu ở tạm ở Việt Nam. Khi đã nhập tịch rồi thì không gọi là Hoa kiều nữa mà là "người Việt gốc Hoa".
Năm 1960 chính phủ ra lệnh giải thể năm bang của Hoa kiều. Cơ chế bang là cách thức cộng đồng người Hoa giao tiếp gián tiếp với nhà chức trách từ thời nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc. Bằng cách giải thể bang, người Hoa phải trực tiếp giao dịch với chính quyền và chịu chi phối bởi luật pháp.
Theo đó công dân việt phải đổi tên họ theo lối người Việt (tức dùng chữ Quốc ngữ), đóng thuế và đăng lính quân dịch.
Kinh tế
Sau khi ra sắc luật số 48 ban hành ngày 21 Tháng Tám 1956 định nghĩa ai là công dân, ai là ngoại kiều, đến ngày 6 Tháng Chín 1956 thì ra sắc luật số 53 hạn chế ngoại kiều không được tham gia 11 nghề ở Việt Nam. cho đến khi nền Đệ nhất Cộng hòa sụp đổ.