✨Ngoại giao Việt Nam thời Tiền Lê

Ngoại giao Việt Nam thời Tiền Lê

Ngoại giao Việt Nam thời Tiền Lê phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Tiền Lê từ năm 980 đến năm 1009 trong lịch sử Việt Nam.

Hoàn cảnh

Năm 979, cha con vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị ám hại. Con nhỏ của vua là Đinh Toàn được lập lên ngôi. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn tư thông với Dương thái hậu và thao túng triều đình khiến các đại thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp bất bình khởi binh chống lại nhưng không thành và bị Lê Hoàn giết chết.

Tháng 6 năm 980, Tri Ung Châu của nhà Tống là Hầu Nhân Bảo dâng thư tâu với Tống Thái Tông nên nhân lúc cha con Đinh Tiên Hoàng bị giết mà mang quân sang đánh. Tống Thái Tông nghe theo, điều các lộ quân Quảng châu, Ninh châu, Lan Lăng giao cho Hầu Nhân Bảo chuẩn bị tiến sang.

Tháng 7 năm 980, nghe tin báo từ Lạng Châu, Lê Hoàn được sự ủng hộ của Dương thái hậu và tướng Phạm Cự Lạng bèn lên ngôi hoàng đế thay Đinh Toàn.

Ngoại giao với Trung Quốc

Trước chiến tranh 981

Từ khi Lê Hoàn lên ngôi đến trước cuộc chiến tranh 981, Lê Hoàn bang giao với nhà Tống vẫn trên danh nghĩa Đinh Toàn.

Tháng 8 năm 980, Tống Thái Tông chưa biết việc thay ngôi của Lê Hoàn, chính thức phát lệnh đánh Đại Cồ Việt. Vua Tống sai Lư Đa Tốn sang đưa thư sang dùng lời lẽ dọa nạt và dụ Đinh Toàn quy phục.

Năm 983 Lê Đại Hành sai sứ sang thông hiếu với nhà Tống lần đầu. Năm 985, Tống Thái Tông sai sứ sang thăm Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành sai sứ sang nhà Tống lần thứ 2, xin giữ chức Tiết Trấn

Tháng 10 năm 986, Tống Thái Tông sai Tả bổ khuyết Lý Nhược Chuyết, Quốc Tử Giám bác sĩ Lý Giác mang chế sách sang phong cho Lê Đại Hành làm An Nam đô hộ Tĩnh Hải quân Tiết độ sử kinh triệu quận hầu. Từ đó nhà Tống công nhận nhà Tiền Lê, không hỏi tới dòng dõi nhà Đinh nữa.

Năm 987, Lý Giác lại đi sứ sang Đại Cồ Việt. Trong lần này Lý Giác đã cùng họa thơ với nhà sư Đỗ Pháp Thuận (được Lê Đại Hành sai đóng vai người coi sông, chèo thuyền cho sứ giả). Khi trở về, Lý Giác làm thơ tiễn có câu: "Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu", nghĩa là: Ngoài trời lại có trời soi nữa. Sư Khuông Việt nói rằng thơ này có ý tôn Lê Hoàn không khác gì vua Tống.

Khi sứ Tống là Tống Cảo sang phong chức, Lê Hoàn nhận tờ chiếu của vua Tống mà không chịu quỳ, nói thác rằng bị ngã ngựa đau chân. Lúc đó sứ Tống im lặng không thắc mắc gì. Lê Văn Siêu cho rằng điều này hoàn toàn là do sự ngang ngạnh của vua Lê và không phải Tống Cảo không biết, nhưng đã không phản ứng. Trong sớ tâu Tống Thái Tông sau này, Tống Cảo nói rằng dù thác cớ đau chân nhưng ngay sau đó Lê Hoàn lại có thể đi chân đất, cầm cần câu lội xuống nước câu cá.

Trong lần tiếp sứ Tống, Lê Hoàn còn làm những việc trêu chọc sứ phương bắc khác như sai người mang con hổ đến công quán cho sứ Tống xem; lại sai mang con trăn lớn đến công quán, hỏi sứ Tống có ăn được thì làm cơm thết đãi. Sứ Tống khước từ không nhận và không dám nổi nóng theo tư thế của sứ giả thiên triều. Harivarman II sai sứ là Chế Đông sang dâng sản vật địa phương, vua Lê trách là trái lễ, không nhận. Harivarman II sợ hãi, năm 994 lại sai cháu Chế Cai sang chầu. Từ đó quan hệ hai bên khá yên ổn không xảy ra xung đột.

Các nhà ngoại giao

  • Tiền Lê: Giang Cự Vọng Vương Thiệu Tộ Từ Mục Ngô Tử Canh ** Lê Long Đề
  • Tống: Lư Đa Tốn Trương Tông Quyền Lý Nhược Chuyết Lý Giác Vương Thế Tắc Lý Cư Giản * Tống Cảo Chiêm Thành: Chế Đông Chế Cai