✨Nguyễn Chí Điềm
Nguyễn Chí Điềm (1920-1976) là một sĩ quan cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Đại tá. Ông là vị Tư lệnh đầu tiên của bộ đội Đặc công Việt Nam trong thời kỳ 1967-1976.
Thân thế
Ông tên thật là Nghiêm Nghị, sinh ngày 1 tháng 5 năm 1920, người làng Khổng Yên, xã Nghĩa Yên, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ (nay thuộc xã Đức Yên, huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ ông tên là Nghiêm Đích, thâm mẫu ông tên là Đào Thị Lựu, đều thuộc gia đình khá giả. Nghiêm Nghị là người con trai lớn trong gia đình.
Do điều kiện gia đình, ông được cho theo học chương trình Tây học, cả về Quốc ngữ lẫn tiếng Pháp. Ông đậu bằng Thành chung (Diplome) khi mới 15 tuổi và có khả năng sử dụng tiếng Pháp thành thạo. Lợi dụng sự bảo trợ trên danh nghĩa của người Nhật, ông cùng các đồng chí đã tăng cường tổ chức và huấn luyện quân sự các tổ chức thanh niên công khai.
Vì vậy, giữa tháng 8 năm 1945, khi chỉ thị chuẩn bị Tổng khởi nghĩa của lãnh đạo Việt Minh chuyển đến Đà Lạt, tối ngày 21 tháng 8, ông cùng các đồng chí đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa do ông Phan Đức Huy làm Chủ tịch, các ông Đinh Quế, Trương Văn Hoàn, Phạm Khắc Quán, Nghiêm Nghị làm Ủy viên và quyết định thời điểm khởi nghĩa nổ ra tại Đà Lạt là vào ngày 23 tháng 8 năm 1945. Ông được phân công nhiệm vụ đến đồn bảo an thuyết phục đồn trưởng Quản Trang và binh lính giao đồn. Ngoài ra, ông còn cùng một số thanh niên bí mật thiết lập một trạm truyền thanh trong phòng nhỏ ở trước chợ trung tâm Đà Lạt (nay là rạp hát 3 - 4 khu Hòa Bình) và 2 cụm loa (gồm 3 chiếc gắn trên nóc chợ và 2 chiếc đặt trên ngọn cây thông phía sau nhà thờ Tin Lành) để truyền thanh về cuộc khởi nghĩa.
Vào lúc 4 giờ sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945, ông thay mặt Ủy ban khởi nghĩa Đà Lạt - Lâm Viên, đọc lệnh khởi nghĩa và kêu gọi các tầng lớp nhân dân Đà Lạt tham gia vào cuộc biểu tình thị uy. Sau đó, ông còn chỉ huy đoàn biểu tình chiếm đồn cảnh sát, phá nhà tù, thả tù nhân chính trị. Tuy nhiên, các địa điểm quan trọng khác như bưu điện, trạm vô tuyến điện, kho bạc... vẫn bị quân Nhật chiếm giữ.
Trở thành chỉ huy quân sự
Sau khi cuộc khởi nghĩa tại Đà Lạt hoàn thành, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Lâm Viên được thành lập, do ông Phan Đức Huy làm Chủ tịch, ông Đinh Quế làm Phó chủ tịch. Nghiêm Nghị được phân công làm Ủy viên Quân sự.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, liên quân Anh - Pháp nổ súng tái chiếm Sài Gòn. Nam Bộ kháng chiến bùng nổ. Tại những vùng chưa thể điều động binh lực, tướng chỉ huy quân Anh - Pháp là Douglas Gracey ra lệnh cho các đơn vị lính Nhật chưa bị giải giáp phải giữ gìn trật tự và giải tán các đơn vị vũ trang của người Việt. Trên cương vị là Ủy viên quân sự, từ ngày 30 tháng 10 năm 1945, Nghiêm Nghị đã chỉ huy các đơn vị vũ trang tại Đà Lạt chống trả các cuộc hành binh của quân Nhật vào Đà Lạt để tiếp viện và giải tán chính quyền lâm thời của người Việt. Riêng ông thoát được và tập hợp các đơn vị còn lại, tổ chức một đơn vị vũ trang thống nhất, tiếp tục chiến đấu. Để tránh liên lụy đến gia đình, bấy giờ vẫn còn kẹt lại Đà Lạt, ông lấy tên mới là Nguyễn Chí Điềm. Vì vậy, đơn vị vũ trang của ông cũng được gọi là Bộ đội Nguyễn Chí Điềm.
Tuy nhiên, đến ngày 27 tháng 1 năm 1946, quân Pháp tiến quân tái chiếm 2 tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng. Do sức chiến đấu quá chênh lệch, các tuyến phòng thủ của người Việt đều bị phá vỡ. Sau thất bại này, ông được Trung ương rút ra Hà Nội để nhận công tác khác.
Chỉ huy Lữ đoàn dù và Tư lệnh Đặc công
Sau Hiệp định Genève, 1954, ông cùng đơn vị tập kết ra Bắc. Ở miền Bắc, ông tiếp tục binh nghiệp và được phong quân hàm Trung tá.
Đầu năm 1961, Lữ đoàn dù 305 được thành lập. Ông được bổ nhiệm làm Lữ đoàn trưởng. Trong thời gian gần 7 năm làm chỉ huy lữ đoàn dù, ông tham gia tổ chức thực hiện nhiều nhiệm vụ đặc biệt như thả dù tiếp tế và giải cứu bên Lào hoặc dùng khí cầu để chống máy bay thâm nhập tầm thấp.
Tháng 3 năm 1967, Lữ đoàn dù 305 được tổ chức lại thành lực lượng đặc công. Ông được chỉ định làm Tư lệnh binh chủng này với cấp bậc Thượng tá và giữ chức vụ này trong suốt gần 10 năm. Trên cương vị Tư lệnh đặc công, ôngđã tham gia cơ quan tham mưu chiến dịch tại Trị - Thiên (1972), chiến dịch Hồ Chí Minh (1975), chủ trì Hội nghị tổng kết đặc công lần thứ nhất (1968), lần thứ hai (1974), tổng kết đặc công trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975-1976. Ông được phong quân hàm Đại tá vào năm 1974.
Sau khi Việt Nam thống nhất, ông được giao nhiệm vụ chủ trì Hội nghị Tổng kết đặc công trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Tuy nhiên, do bệnh hiểm nghèo, ông bất ngờ qua đời ngày 7 tháng 11 năm 1976. Vào khoảng năm 1950,
Thân phụ ông là cụ Nghiêm Đích qua đời năm 1967 tại quê nhà. Các em ông đều là sĩ quan quân đội cấp tá như Nghiêm Kình (phó chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 320B, liệt sĩ, hy sinh năm 1972 tại Quảng Trị), Nghiêm Trình (binh chủng Tăng - thiết giáp), Nghiêm Nhu (Đoàn ca múa Tổng cục Chính trị), Nghiêm Sĩ Thái (Trưởng phân xã TTXVN tại Lâm Đồng)... Con trai lớn của ông Nghiêm Sỹ Chúng cũng là sĩ quan cao cấp của quân đội, hàm Thiếu tướng.
