Đông Thành Vương (?-501, trị vì 479-501) là vị quốc vương thứ 24 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên.
Bối cảnh
Ông là con trai của Côn Kĩ (Gonji), đệ của vị quốc vương thứ 22 là Văn Chu Vương, ông đã trở về Bách Tế từ Nụy Quốc Nhật Bản năm 477 sau khi biết việc kinh đô Bách Tế thất thủ. Cổn Kĩ mất cùng năm, và cũng giống như Văn Chu Vương, ông có thể đã bị Giải Cừu (Hae Gu) sát hại. Đông Thành Vương xuất hiện và được đưa lên ngôi là nhờ gia tộc Chân (Jin), thế lực chiếm ưu thế sau cuộc nổi loạn của Giải Cừu. Sau khi Tam Cân Vương qua đời mà không có con, ngai vàng được trao cho Đông Thành Vương.
Trị vì
Ông đã tiến hành củng cố quyền lực triều đình sau khi kinh đô được di dời từ khu vực Seoul ngày nay tới Hùng Tân (Ungjin). Ông đã cho xây một số thành để tạo nên kinh đô mới. Ông thu nạp các gia tộc địa phương là Tát (Sa), Duyên (Yeon), và Bạch (Baek) vào triều đình để chống lại các quý tộc bảo thủ từ thời ở cố đô.
Đông Thành Vương cử một đoàn sứ thần triều cống đến Nam Tề vào năm 484, tái phục hồi quan hệ với các triều đại miền Nam Trung Quốc sau một thời gian dài gián đoạn. Ông lập liên minh với Tân La thông qua hôn nhân với một nữ quý tộc Tân La vào năm 493, và hai nước cùng kết hợp chống lại Cao Câu Ly vào năm 495.
Năm 498, quân Bách Tế chinh phục Đam La, vương quốc nằm trên đảo Jeju (Tế Châu), vốn đã chính thức chấp nhận quyền cai trị của Bách Tế từ 22 năm trước, bởi nước này không gửi cống nạp.
Nam Tề thư thuật lại rằng Đông Thành Vương đã cử quân đội đến Liêu Đông và Liêu Tây để đánh bại quân Cao Câu Ly.
Qua đời
Bắt đầu năm 499, Bách Tế bị ảnh hưởng bởi nạn đói, nhưng theo Tam quốc sử ký (Samguk Sagi) thì nhà vua không bận tâm. Ông tiếp tục lối sống buông thả trong khi cướp bóc tràn lan.
Vào cuối thời kỳ trị vì của Đông Thành Vương, các gia tộc địa phương của kinh đô mới đã làm lu mờ các gia tộc quyền lực theo truyền thống là Giải (Hae) và Chân (Jin), và thậm chí gây áp lực lên vương quyền. Đông Thành Vương đã tìm cách để kiềm chế họ bằng cách lưu đày Bạch Gia (Baek Ga) đến một thành xa xôi. Điều này gây nên sự oán hận, và lực lượng của Bạch Gia đã ám sát Đông Thành Vương khi ông đi săn.
👁️
55 | ⌚2025-09-16 22:32:01.325

**Đông Thành Vương** (?-501, trị vì 479-501) là vị quốc vương thứ 24 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. ## Bối cảnh Ông là con trai của Côn Kĩ (Gonji), đệ của
**Đông Thành Vương** (?-501, trị vì 479-501) là vị quốc vương thứ 24 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. ## Bối cảnh Ông là con trai của Côn Kĩ (Gonji), đệ của
**Đông Thành Vương** (?-501, trị vì 479-501) là vị quốc vương thứ 24 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. ## Bối cảnh Ông là con trai của Côn Kĩ (Gonji), đệ của
**Uy Đức Vương** (525–598, trị vì 554–598) là quốc vương thứ 27 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai cả của Thánh Vương, và lên ngôi sau cái chết
**Uy Đức Vương** (525–598, trị vì 554–598) là quốc vương thứ 27 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai cả của Thánh Vương, và lên ngôi sau cái chết
**Uy Đức Vương** (525–598, trị vì 554–598) là quốc vương thứ 27 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai cả của Thánh Vương, và lên ngôi sau cái chết
**Bách Tế Vũ Ninh Vương** (_Muryeong-wang_, 462 - 523), cai trị đất nước từ năm 501 - 523. Vũ Ninh Vương là vị vua thứ 25 của triều đại Bách Tế trong thời kì Tam
**Bách Tế Vũ Ninh Vương** (_Muryeong-wang_, 462 - 523), cai trị đất nước từ năm 501 - 523. Vũ Ninh Vương là vị vua thứ 25 của triều đại Bách Tế trong thời kì Tam
**Bách Tế Vũ Ninh Vương** (_Muryeong-wang_, 462 - 523), cai trị đất nước từ năm 501 - 523. Vũ Ninh Vương là vị vua thứ 25 của triều đại Bách Tế trong thời kì Tam
**Đông Thành Vương** (_chữ Hán_ 東城王) là thụy hiệu hoặc phong hiệu của một số nhân vật lịch sử. ## Danh sách * Bách Tế Đông Thành vương * Việt Nam Tiền Lê triều Đông
**Đông Thành Vương** (_chữ Hán_ 東城王) là thụy hiệu hoặc phong hiệu của một số nhân vật lịch sử. ## Danh sách * Bách Tế Đông Thành vương * Việt Nam Tiền Lê triều Đông
**Bách Tế** (, (18 TCN – 660 CN) là một vương quốc nằm tại tây nam bán đảo Triều Tiên. Đây là một trong Tam Quốc Triều Tiên, cùng với Cao Câu Ly (Goguryeo) và
**Bách Tế** (, (18 TCN – 660 CN) là một vương quốc nằm tại tây nam bán đảo Triều Tiên. Đây là một trong Tam Quốc Triều Tiên, cùng với Cao Câu Ly (Goguryeo) và
**Thánh Vương**, **Minh Vương** hay **Thánh Minh Vương** (mất 554, trị vì 523–554) là vị quốc vương thứ 26 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là vương tử của Bách Tế
**Thánh Vương**, **Minh Vương** hay **Thánh Minh Vương** (mất 554, trị vì 523–554) là vị quốc vương thứ 26 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là vương tử của Bách Tế
**Thánh Vương**, **Minh Vương** hay **Thánh Minh Vương** (mất 554, trị vì 523–554) là vị quốc vương thứ 26 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là vương tử của Bách Tế
**Vũ Vương của Bách Tế** (580 - 641, trị vì: 600 - 641) là vị vua thứ 30 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai thứ tư của Uy
**Vũ Vương của Bách Tế** (580 - 641, trị vì: 600 - 641) là vị vua thứ 30 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai thứ tư của Uy
**Vũ Vương của Bách Tế** (580 - 641, trị vì: 600 - 641) là vị vua thứ 30 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai thứ tư của Uy
**Ôn Tộ**, hay **Onjo**, (? - 28; trị vì: 18 TCN – 28) là vị vua đầu tiên của Bách Tế, một trong ba Tam Quốc tại bán đảo Triều Tiên. Theo Tam Quốc Sử
**Ôn Tộ**, hay **Onjo**, (? - 28; trị vì: 18 TCN – 28) là vị vua đầu tiên của Bách Tế, một trong ba Tam Quốc tại bán đảo Triều Tiên. Theo Tam Quốc Sử
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Hậu Bách Tế** là một trong Hậu Tam Quốc tại Triều Tiên cùng với Hậu Cao Câu Ly và Tân La. Vương quốc chính thức được thành lập từ vị tướng Tân La bất bình
**Cái Lâu Vương** (mất 166, trị vì 128–166) là vị quốc vương thứ tư của Bách Tế, mộ trong Tam Quốc Triều Tiên. Theo tài liệu lịch sử Tam quốc sử ký (Samguk Sagi), ông
**Cái Lâu Vương** (mất 166, trị vì 128–166) là vị quốc vương thứ tư của Bách Tế, mộ trong Tam Quốc Triều Tiên. Theo tài liệu lịch sử Tam quốc sử ký (Samguk Sagi), ông
**Cái Lâu Vương** (mất 166, trị vì 128–166) là vị quốc vương thứ tư của Bách Tế, mộ trong Tam Quốc Triều Tiên. Theo tài liệu lịch sử Tam quốc sử ký (Samguk Sagi), ông
**Sân bay quốc tế Long Thành** (tên chính thức: **Cảng hàng không quốc tế Long Thành**), là một sân bay quốc tế đang trong quá trình xây dựng tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai,
**Sân bay quốc tế Long Thành** (tên chính thức: **Cảng hàng không quốc tế Long Thành**), là một sân bay quốc tế đang trong quá trình xây dựng tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai,
**Nghĩa Từ Vương** (? - 660?, trị vì 641 - 660) là vị quốc vương thứ 31 và cuối cùng của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Thời kỳ trị vì của ông
**Nghĩa Từ Vương** (? - 660?, trị vì 641 - 660) là vị quốc vương thứ 31 và cuối cùng của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Thời kỳ trị vì của ông
**Nghĩa Từ Vương** (? - 660?, trị vì 641 - 660) là vị quốc vương thứ 31 và cuối cùng của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Thời kỳ trị vì của ông
**Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế** (chữ Hán: 北齊孝昭帝; 535–561), tên húy là **Cao Diễn** (高演), tên tự là **Diên An** (延安), là hoàng đế thứ ba của triều Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Cao Chu Mông** (tiếng Triều Tiên: 주몽, 朱蒙 _Go Jumong_), hay **Đông Minh Thánh Vương** (東明聖王 _Dongmyeongseongwang_ hay 東明王 _Dongmyeongwang_) (58 - 19 TCN, trị vì 37 - 19 TCN) là vị vua sáng lập
**Cao Chu Mông** (tiếng Triều Tiên: 주몽, 朱蒙 _Go Jumong_), hay **Đông Minh Thánh Vương** (東明聖王 _Dongmyeongseongwang_ hay 東明王 _Dongmyeongwang_) (58 - 19 TCN, trị vì 37 - 19 TCN) là vị vua sáng lập
**Cổ Nhĩ Vương** (mất 286, trị vì 234–286) là vị quốc vương thứ 8 của Bách Tế. Ông là con trai thứ hai của vị quốc vương thứ 4 Cái Lâu Vương và là đệ
**Cổ Nhĩ Vương** (mất 286, trị vì 234–286) là vị quốc vương thứ 8 của Bách Tế. Ông là con trai thứ hai của vị quốc vương thứ 4 Cái Lâu Vương và là đệ
**Cổ Nhĩ Vương** (mất 286, trị vì 234–286) là vị quốc vương thứ 8 của Bách Tế. Ông là con trai thứ hai của vị quốc vương thứ 4 Cái Lâu Vương và là đệ
**Đa Lâu Vương** của Bách Tế (28–77), không rõ năm sinh, mất vào năm 77. Ông là vị quốc vương thứ hai của Bách Tế - một trong ba quốc gia thời Tam quốc Triều
**Đa Lâu Vương** của Bách Tế (28–77), không rõ năm sinh, mất vào năm 77. Ông là vị quốc vương thứ hai của Bách Tế - một trong ba quốc gia thời Tam quốc Triều
**Cận Cừu Thủ Vương** (trị vì 375–384) là quốc vương thứ 14 của Bách Tế. Cận Cừu Thủ Vương là con trai cả của vị quốc vương thứ 13 là Cận Tiếu Cổ Vương, và
**Cận Cừu Thủ Vương** (trị vì 375–384) là quốc vương thứ 14 của Bách Tế. Cận Cừu Thủ Vương là con trai cả của vị quốc vương thứ 13 là Cận Tiếu Cổ Vương, và
**Cận Cừu Thủ Vương** (trị vì 375–384) là quốc vương thứ 14 của Bách Tế. Cận Cừu Thủ Vương là con trai cả của vị quốc vương thứ 13 là Cận Tiếu Cổ Vương, và
**Cái Lỗ Vương** (?-475, 455-475) là vị quốc vương thứ 21 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai cả của vị quốc vương thứ 20 là Bì Hữu Vương.
**Cái Lỗ Vương** (?-475, 455-475) là vị quốc vương thứ 21 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai cả của vị quốc vương thứ 20 là Bì Hữu Vương.
**Cái Lỗ Vương** (?-475, 455-475) là vị quốc vương thứ 21 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai cả của vị quốc vương thứ 20 là Bì Hữu Vương.