✨Bessarabia (tỉnh của Đế quốc Nga)
Tỉnh Bessarabia là một tỉnh (guberniya) của Đế quốc Nga, trung tâm hành chính nằm tại Kishinev (nay là Chișinău của Moldova). Tỉnh có diện tích và có 1.935.412 cư dân. Tỉnh Bessarabia giáp với tỉnh Podolia ở phía bắc, tỉnh Kherson ở phía đông, biển Đen ở phía nam, Romania ở phía tây, và Áo ở phía tây bắc. Lãnh thổ tỉnh này hiện gần tương ứng với hầu hết Moldova (65%) và một số phần của các tỉnh Chernivtsi và Odesa của Ukraina (35%).
Tỉnh bao gồm phần phía đông của Thân vương quốc Moldavia cùng các lãnh thổ lân cận của Ottoman bị Nga sáp nhập theo Hiệp định Bucharest sau Chiến tranh Nga–Thổ (1806–1812). Tỉnh bị bãi bỏ vào năm 1917 cùng với việc thành lập Sfatul Țării, hội đồng này tuyên bố Cộng hòa Dân chủ Moldavia vào tháng 12 năm 1917. Sau đó khu vực thống nhất với Romania vào tháng 4 năm 1918.
Lịch sử
Sáp nhập
Khi Đế quốc Nga nhận thấy sự suy yếu của Đế quốc Ottoman, họ đã chiếm nửa phía đông của Thân vương quốc Moldavia tự trị, giữa hai sông Prut và Dniester. Tiếp theo đó là sáu năm chiến tranh, kết thúc theo Hiệp định Bucharest (1812), theo đó Đế quốc Ottoman thừa nhận việc Nga sáp nhập tỉnh này.
Năm 1829, theo Hiệp định Adrianople, Ottoman nhượng lại lãnh thổ đó cho Nga cùng đồng bằng sông Danube, nơi này cũng trở thành một phần của tỉnh Bessarabia.
Trước khi Nga sáp nhập, lãnh thổ này không có tên cụ thể, Moldavia được chia theo truyền thống thành "Ţara de Sus" (Vùng đất thượng, khu vực miền núi của Karpat) và "Ţara de Jos" (Vùng đất hạ, vùng đồng bằng bao gồm lãnh thổ này). Bessarabia vốn là tên phần phía nam của lãnh thổ này (nay gọi là Budjak); người ta tin rằng khu vực này được đặt tên theo Nhà Basarab của Wallachia, có thể đã cai trị khu vực vào thế kỷ 14. Người Nga sử dụng tên "Bessarabia" cho cả khu vực chứ không phải chỉ phần phía nam.
Sau cái chết của Bănulescu-Bodoni vào năm 1821, Bessarabia thiếu một nhà lãnh đạo mạnh mẽ, và do người Nga lo sợ chủ nghĩa dân tộc từng gây ra Cách mạng Wallachia chống Ottoman năm 1821 ở Wallachia lân cận, chính quyền địa phương bắt đầu rút dần nhiều quyền tự do. Hiến pháp không còn bắt buộc sử dụng tiếng Romania cho các thông báo công khai và vào năm 1854, tiếng Nga trở thành ngôn ngữ chính thức. Cũng vào khoảng năm 1850, tiếng Romania không còn được sử dụng trong trường học và việc nhập khẩu sách từ Moldavia và Wallachia bị cấm.
Các boyar Moldavia phản đối những cải cách làm suy giảm quyền lực của chính họ, nhưng các kháng nghị của họ không được tổ chức tốt và hầu như bị phớt lờ. Tuy nhiên, một số gia đình boyar Moldavia đã được hòa nhập vào giới quý tộc Nga, nhưng hầu hết các quý tộc của Bessarabia đều là người nước ngoài: vào năm 1911, có 468 gia đình quý tộc ở Bessarabia, trong đó chỉ có 138 là người Moldavia.
Nam Bessarabia trở về Moldavia
thumb|Bản đồ biên giới giữa Moldavia/Romania và Nga, 1856-1878 Năm 1856, theo các điều khoản của Hiệp định Paris, Nga buộc phải trả lại một vùng lãnh thổ đáng kể tại Nam Bessarabia cho Moldavia, quốc gia này gia nhập Wallachia vào năm 1859 để hình thành Romania.
Năm 1877, Đế quốc Nga và Romania ký một hiệp ước mà theo đó Romania và Nga là đồng minh chống lại Đế quốc Ottoman, trong khi Nga công nhận nền độc lập của Romania và đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ sau chiến tranh. Mặc dù vậy, không cường quốc châu Âu nào muốn mạo hiểm xung đột với Nga.
Theo Hiệp định Berlin (1878), Romania giành được Dobruja như một sự bù đắp cho việc mất Nam Bessarabia. Mặc dù là một lãnh thổ rộng lớn hơn, nhưng người Romania coi đó là một sự trao đổi không công bằng và chấp nhận nó một cách miễn cưỡng, vì không có giải pháp thay thế nào khác.
Văn hóa
Do hậu quả của chính sách Nga hóa, Bessarabia là tỉnh lạc hậu nhất trong số các tỉnh phía tây của Đế quốc Nga. Năm 1897, tỷ lệ biết chữ của toàn bộ Bessarabia chỉ là 15,4%, với chỉ 6% người dân tộc Moldavia biết chữ,
Kết quả là đời sống văn học và văn hóa bị đình trệ, chỉ có một số nhân vật văn học đáng chú ý xuất thân từ Bessarabia, trong số đó có Alexandru Hasdeu (1811–1872), Constantin Stamati (1786–1869) và Teodor Vîrnav (1801–1860). Vào nửa sau của thế kỷ 19, mọi liên kết với văn học Romania đều bị cắt đứt và không có trào lưu văn học hay trường phái phê bình nào phát triển ở Bessarabia. Trên thực tế, vào năm 1899, một vị khách không tìm thấy cuốn sách tiếng Romania nào trong thư viện công cộng Kishinev. Trong làn sóng bạo lực đầu tiên, liên quan đến lễ Phục sinh, 49 người Do Thái bị giết, một số lượng lớn phụ nữ Do Thái bị hãm hiếp và 1.500 ngôi nhà bị hư hại. Người Do Thái ở Mỹ bắt đầu hỗ trợ tài chính có tổ chức quy mô lớn và hỗ trợ di cư. Vụ việc tập trung sự chú ý tiêu cực trên toàn thế giới vào cuộc đàn áp người Do Thái ở Nga.
Chính trị
Không có đảng chính trị hay phong trào Moldavia nào ở Bessarabia cho đến năm 1905, khi có hai nhóm lớn được thành lập. Những người ôn hòa do địa chủ Pavel Dicescu lãnh đạo được tổ chức xung quanh Societatea pentru Cultură Naţională ("Hiệp hội Văn hóa Dân tộc"), tranh luận về việc sử dụng tiếng Romania làm ngôn ngữ giảng dạy trong trường học, nhưng chống lại các cải cách xã hội. Năm 1909, họ đã thành công trong việc thông qua một nghị quyết tại zemstvo của tỉnh liên quan đến việc sử dụng tiếng Romania trong trường học.
Khi Cách mạng Tháng Hai xảy ra ở Petrograd năm 1917, thống đốc của tỉnh Bessarabia là Mihail Mihail Voronovici từ chức vào ngày 13 tháng 3 và chuyển giao quyền lực hợp pháp của mình cho chủ tịch của zemstvo tỉnh là Constantin Mimi, người này được bổ nhiệm làm Ủy viên nhân dân của "Chính phủ lâm thời tại Bessarabia", với Vladimir Criste là cấp phó của ông ta. Các thủ tục tương tự cũng diễn ra ở tất cả các vùng của Đế quốc: các thủ lĩnh của chính quyền Sa hoàng đã chuyển giao quyền hạn hợp pháp của họ cho các thủ lĩnh của huyện và zemstvo tỉnh, sau đó được gọi là Ủy viên nhân dân huyện/tỉnh.
Nhân khẩu
Theo nhà sử học người Bessarabia Ștefan Ciobanu, vào đầu thế kỷ 19 tỷ lệ người Romania (Moldavia) là khoảng 95% (1810), không bao gồm các lãnh thổ trước đây nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Thổ Nhĩ Kỳ (Budjak và Khotyn), nhưng nơi đó cũng được cho là có người Romania chiếm đa số. Quyền cai trị của người Nga dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cấu trúc dân tộc của Bessarabia, đặc biệt là do chính sách nhập cư của Nga từ các tỉnh lân cận và quá trình Nga hóa. Việc nhập cư là không đồng đều: ở một số khu ở phía bắc và phía nam của Bessarabia (ví dụ Hotin và Akkerman), dòng người nhập cư dẫn đến việc người Ukraina đông hơn người Romania, trong khi các vùng nông thôn của trung tâm hầu hết là người Romania.
thumb|Các nhóm dân tộc ở phần châu Âu của Đế quốc Nga trước Thế chiến thứ nhất. Ban đầu, mục đích của chính sách thuộc địa hóa không liên quan đến thành phần dân tộc, mà là tăng dân số của khu vực có dân cư khá thưa thớt, nhằm khai thác tốt hơn các nguồn tài nguyên của nó. Đó là một phần của chiến dịch thuộc địa hóa Novorossiya lớn hơn, theo đó Nga kêu gọi tất cả những ai muốn làm việc và sống dưới thẩm quyền của mình, bất kể họ đến từ Đế quốc Nga hay từ nơi khác.
Hầu hết người Moldavia tại Bessarabia là nông dân tự do, trong đó hầu hết không có đất, họ thuê đất từ địa chủ và tu viện, trong khi 12% (năm 1861) là răzeşi (nông dân tự canh). Cải cách Giải phóng nông nô năm 1861 có rất ít tác động ở Bessarabia, vì nơi đây có rất ít nông nô: chỉ 12.000 nông nô, hầu hết được đưa đến từ Nga cho các hoạt động phi nông nghiệp.
Hành chính
Từ 1812 đến 1818, tỉnh có 12 huyện, sau đó được hợp nhất thành 6, sau đó tách thành 9 huyện (ținuturi): Hotin, Soroca, Iași, Orhei, Bender, Hotărniceni, Greceni, Codru, Reni (Ismail). Các thuật ngữ ban đầu cho huyện là (trong
Giáo hội
Được tách khỏi Tòa đô thị Moldavia, nhà thờ Chính thống giáo Bessarabia trở thành một giáo khu của Giáo hội Chính thống giáo Nga, và sau cái chết của Bănulescu-Bodoni, họ trở thành một tác nhân trong chính sách nhà nước về Nga hóa.
Sau Cách mạng Nga năm 1905, nhà thờ quyết định cho phép các linh mục làng sử dụng tiếng Romania và tái lập nhà in giáo khu, nơi đây sẽ xuất bản các tài liệu tôn giáo và một tờ báo.
