✨Cao Trường Cung
Cao Trường Cung (chữ Hán: 高長恭, 541? – 573) là tướng lãnh, hoàng thân nhà Bắc Tề, mỹ nam nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Dân gian thường gọi ông với vương hiệu là Lan Lăng vương (兰陵王).
Xuất thân
Ông có tên húy là Cao Túc (高肃), tự Trường Cung, tự khác Hiếu Quán, nhưng quen dùng tên tự. Trường Cung là thành viên của hoàng thất nhà Bắc Tề, có nguyên quán ở huyện Điều, quận Bột Hải . Ông là cháu nội và là con trai của 2 đời quyền thần nhà Đông Ngụy là Cao Hoan và Cao Trừng, là cháu gọi Bắc Tề Văn Tuyên đế Cao Dương bằng chú.
Trường Cung là con trai thứ 3 hoặc thứ 4 của Cao Trừng; trong các anh em, chỉ có mẹ của ông không rõ là ai.
- mẹ của Trường Cung nhiều khả năng có thân phận hèn kém (nên không ghi lại danh tính), trong khi người anh trai (hoặc em trai) liền kề Cao Hiếu Uyển có mẹ là Văn Tương Kính hoàng hậu Nguyên thị, em gái của Đông Ngụy Hiếu Tĩnh đế, chính thất của Cao Trừng. Nhờ thân phận của mẹ, Hiếu Uyển được phong vương vào năm Thiên Bảo đầu tiên (550) thời Văn Tuyên đế, đồng thời với anh cả Cao Hiếu Du, sớm nhất trong các anh em. Trường Cung và anh hai Hiếu Hành được phong vương muộn nhất.
Từ đó Mã Trung Lý mạnh dạn suy đoán: Trường Cung phải là con trai thứ 3 của Cao Trừng, anh trai của Cao Hiếu Uyển và ông cũng được sinh ra vào cùng năm Hưng Hòa thứ 3 (541) thời Hiếu Tĩnh đế với Hiếu Uyển.
Năm Hoàng Kiến đầu tiên (561) thời Hiếu Chiêu đế, Trường Cung được tăng ấp kể cả trước đó là 1500 hộ, chuyển làm Trung lĩnh quân, gia quan Khai phủ nghi đồng tam tư.
Tháng 11 ÂL năm thứ 3 (564), quân Bắc Chu tiến đánh Lạc Dương. Tháng 12 ÂL, Trường Cung cùng Đại tướng quân Hộc Luật Quang đi trước cứu viện, đóng trại ở Mang Sơn, e ngại quân Chu cường thịnh, chưa dám tiến quân. Đoàn Thiều từ Tấn Dương đến hội quân, cùng chư tướng lên núi quan sát tình thế. Quân Tề đến Thái Hòa cốc thì gặp quân Chu, bèn kết trận để đợi; Đoàn Thiều nắm tả quân, Trường Cung nắm trung quân, Hộc Luật Quang nắm hữu quân.
Năm Thiên Thống thứ 2 (566) thời Hậu Chủ, Trường Cung được làm Ti Châu mục. Năm thứ 3 (567), Trường Cung được ra làm Sứ trì tiết, Đô đốc Thanh Châu chư quân sự, Thanh Châu thứ sử. Năm thứ 5 (569), Trường Cung được chuyển làm Doanh Châu thứ sử,
Trong tháng ấy, Tề quốc công Vũ Văn Hiến của Bắc Chu vượt Hoàng Hà xâm phạm, Hộc Luật Quang lui về giữ Hoa Cốc. Triều đình khiến Trường Cung cùng Đoàn Thiều hội quân với Quang ngăn chặn quân Chu. Quân Tề tiến chiếm Bách Cốc, sau đó đôi bên rơi vào thế giằng co. Tháng 6 ÂL, quân Chu chiếm được thành ngoài Định Dương, bao vây thành trong. Đoàn Thiều bệnh nặng, trao quyền chỉ huy
Tháng 5 ÂL năm Vũ Bình thứ 4 (573), Hậu Chủ sai Từ Chi Phạm đưa rượu độc đến cho Trường Cung; ông nói với vương phi Trịnh thị rằng: "Ta trung thành phụng sự bề trên, có tội gì với trời mà nhận rượu độc thế này?" Trịnh thị hỏi: "Sao không xin gặp thiên tử?" Trường Cung nói: "Thiên tử còn có thể gặp hay sao?" Rồi uống rượu độc mà mất.
Các vương nhà Bắc Tề tuyển chọn quan viên vương quốc và phụ tá mạc phủ, phần nhiều lấy con em nhà buôn giàu có, những thiếu niên làm việc thả ưng dắt chó, chỉ có bọn Tương Thành vương Cao Dục (con trai thứ 8 của Cao Hoan), Quảng Ninh vương Cao Hiếu Hành và Trường Cung mời gọi nhiều kẻ sĩ có tài năng văn học và kiến thức hơn người, nên được đương thời khen ngợi.
Trường Cung làm tướng, siêng năng với cả những việc vặt. Mỗi khi Trường Cung có món ngon, dù chỉ là vài quả dưa, ắt cũng chia cho tướng sĩ. Khi xưa ở Doanh Châu, Hành tham quân Dương Sĩ Thâm phơi bày tang chứng, khiến Trường Cung chịu miễn quan. Đến trận Định Dương, Sĩ Thâm ở trong quân, sợ gặp vạ. Trường Cung nghe được thì nói: "Ta vốn không có ý này." Rồi tìm lỗi nhỏ, phạt đòn Sĩ Thâm 20 trượng, để ông ta yên lòng.
May mắn thay, Lan Lăng vương nhập trận khúc truyền sang Nhật Bản vào đời Đường. Vũ khúc được nữ Thiên hoàng Kōken thời kỳ Nara rất yêu thích, trở nên phổ biến trong dân gian. Nhờ đó, vũ khúc trở thành 1 phần trong nhã nhạc Nhật Bản, thường gọi là Lăng vương, đến này vẫn còn giữ nguyên giá trị. Năm 1986, huyện Từ, thành phố Hàm Đan thông qua chuyên gia Nhật Bản tìm cách phục hồi vũ khúc này. Ngày 5 đến 7/9/1992, thành phố Hàm Đan mời đoàn nhã nhạc Nhật Bản sang biểu diễn Lan Lăng vương nhập trận khúc trước mộ Cao Trường Cung (mộ gió, nơi tìm được bia).
Bia và văn bia
Bia mộ của Trường Cung được Tri Từ Châu Bùi Mẫn Trung đào ra vào năm Quang Tự thứ 20 (1894). Bia được điêu khác bằng đá xanh, cao 4,1 m.
Mặt trước của bia ở đầu có 16 chữ triện lớn, chia làm 4 hàng: "Tề cố Giả Hoàng việt Thái sư Thái úy công Lan Lăng Trung Vũ vương bi"; bên dưới có 18 hàng x 36 chữ lệ. Mặt sau bia ở đầu có bài thơ ngũ ngôn do em trai thứ 5 của Trường Cung là An Đức vương Cao Diên Tông làm ra; ở dưới có 26 hàng x 52 chữ, nhưng bị phong hóa mất 16 chữ.
Năm 1988, bia được công nhận là văn vật bảo hộ trọng điểm cấp quốc gia.
