✨Chiến tranh Krym
Chiến tranh Krym (tiếng Nga: Крымская война hoặc Восточная война, chuyển tự: Krymskaja wojna hoặc Wostotschnaja wojna, tiếng Anh: Crimean War) bắt đầu từ năm 1853 và chấm dứt năm 1856, giữa hai lực lượng quân sự châu Âu, phe đồng minh gồm Đế quốc Pháp, Đế quốc Anh, Đế quốc Ottoman và Vương quốc Sardegna chống lại Đế quốc Nga. Cuộc chiến tranh này còn được người đương thời gọi là Chiến tranh nước Nga. Phần lớn các trận chiến xảy ra trên bán đảo Krym, những trận nhỏ hơn tại miền tây Thổ Nhĩ Kỳ và vùng biển Baltic. Một trong những lý do gây ra cuộc chiến là việc chính phủ Nga hoàng bảo hộ cho các thần dân Chính Thống giáo nằm dưới ách thống trị của Đế quốc Ottoman.. Cuộc công kích anh dũng của Tiểu Lữ đoàn Anh Quốc nhằm vào quân Nga vào năm 1854 tuy thất bại, nhưng trở thành biểu tượng của tinh thần trách nhiệm cũng như kỷ cương cao. Vào năm 1856, các nước Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và Sardinia đã giành được chiến thắng. Quân đội Nga - đội quân tinh nhuệ nhất của châu Âu trong con mắt của Nga hoàng Nikolai I - đã đại bại. Nước Nga bị mất chủ quyền ở biển Đen - một thành quả của Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế.
Bối cảnh
Tranh chấp vùng Đất Thánh
trái|nhỏ|Hoàng đế Nga [[Nikolai I của Nga|Nikolai I (1825-1855)]]
Sau các cuộc Cách mạng 1848 tại các nước châu Âu, hoàng đế Nga âm mưu đeo đuổi một chính sách hung hăng hơn tại vùng Balkan. Nước Nga hy vọng trục lợi trên sự suy yếu của Đế quốc Ottoman, một cường quốc đã bị hoàng đế Nikolai I của Nga mệnh danh là "thực thể ốm yếu ở châu Âu", nhưng bị Anh và Pháp phản đối quyết liệt.
Năm 1854, quân Nga vượt sông Danube tràn vào xâm chiếm lãnh thổ của Đế quốc Ottoman. Anh và Pháp tuyên chiến với Nga và gửi quân tới để bảo vệ Thổ. phải|nhỏ|[[Napoléon III - Hoàng đế Pháp (1852 - 1870)]]
Tuy Anh và Pháp tuyên chiến với Nga vào ngày 28 tháng 3 năm 1854, xích mích giữa hai phe xảy ra từ cuộc đảo chính năm 1851 tại Pháp. Hoàng đế nước Pháp là Napoléon III lên ngôi và yêu cầu Đế quốc Ottoman phải công nhận Pháp có chủ quyền đối với vùng đất thánh (Israel và Palestine ngày nay). Sultan Ottoman là Abdul Mejid I theo Pháp, công nhận Pháp và Giáo hội Công giáo Rôma có quyền lực cao nhất của Công giáo trong vùng đất thánh, và là nước bảo hộ cho giáo dân khắp nơi. Quyền hành này trước đó thuộc Giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp
Binh sĩ người [[Scotland của Anh đánh bại cuộc tấn công của kỵ binh Nga]]
Trong nỗ lực giải vây cho Sevastopol, quân Nga mở cuộc tiến công lớn vào Liên quân tại Inkerman nhưng thất bại. Quân Nga chết và bị thương lên tới 12.000 so với 3.000 người của Liên quân. Quân Nga phải huy động chiến thuyền, dùng pháo hải quân và cho thủy thủ chiến đấu như lính thủy đánh bộ. Quân đội Nga thiệt hại 4 chiến hạm lớn (3 tầng, 110 súng), 12 chiến hạm trung (2 tầng, 60 súng) và nhiều chiến thuyền nhỏ. Đề đốc Nga là Pavel Stepanovich Nakhimov bị bắn trúng đầu và chết ngày 30 tháng 6 năm 1855. Sevastopol thất thủ vào ngày 11 tháng 9 năm 1855, sau gần 11 tháng bị bao vây.
Cùng năm, quân Nga bao vây và chiếm đồn Kars của Ottoman.
Chiến trường biển Baltic
Những trận đánh ở Krym được nói đến nhiều, trong khi chiến cuộc trên biển Baltic thường ít được nhắc tới mặc dầu xảy ra gần thủ đô Nga Sankt Peterburg. Lúc đầu các phe tham chiến bị lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Hải quân Nga tuy kém lực lượng nhưng lại đóng trú quanh những khu phòng thủ kiên cố như đồn Kronstadt. Bên kia thì Đề đốc Anh là Charles Napier và Đề đốc Pháp là Parseval-Deschènes lại ngại tấn công, và chỉ có thể ngăn chặn các tàu buôn Nga và công kích các đồn phòng thủ nhỏ của Nga dọc bờ biển Phần Lan. Anh-Pháp tấn công và tiêu diệt đồn Bomarsund và Slava nhưng ở các đồn khác lại bị đánh bật ra.
phải|[[Bomarsund bị dội bom]] Trong những đợt tấn công này, quân Anh đốt phá hai vùng Oulu và Raahe và bị thế giới lên tiếng phản đối. Tin lan về đến Anh và nghị sĩ quốc hội Thomas Gibson đòi Hạ viện Anh hạch trách các đề đốc hải quân đang tham chiến về những hành động tàn phá tài sản của người dân vô tội.
Ở Nga, kinh tế từ từ bị suy yếu vì buôn bán theo đường biển bị bế tắc, và quân Nga cũng do đó mà giảm sút tinh nhuệ.
Mùa thu năm này, hạm đội Anh do chiến hạm Miranda dẫn đầu kéo từ biển Baltic ra biển Trắng và pháo kích hai tỉnh Kola và Solovki. Kola bị tàn phá hoàn toàn. Quân Anh tấn công Arkhangelsk nhưng thất bại.
Năm 1855, hơn 1.000 đại bác của hải quân đồng minh Anh-Pháp bắn hơn 20 nghìn viên pháo vào đồn phòng thủ Sveaborg của Nga gần Helsinki. Nhưng chỉ huy trưởng Nga Viktor Poplonsky đem tàu chiến Rossiya chặn giữ cửa biển, không cho quân Anh-Pháp vào. Trong khi đó quân Anh-Pháp phá mãi không xong, phải huy động thêm lực lượng để tấn công lần nữa nhưng chưa kịp thì chiến tranh chấm dứt.
"Tu viện Solovetsky ở biển Trắng
bị hải quân Hoàng gia Anh tấn công"
Sức kháng cự của quân Nga phần lớn do khả năng sử dụng mìn ngầm trên biển tại Kronstadt và Sevastopol. Thủy lôi trong chiến thuật hải quân ngày nay có lẽ bắt đầu từ chiến tranh vùng Krym.
Thái Bình Dương
Tranh chấp giữa các đế quốc châu Âu cũng diễn ra ở Thái Bình Dương. Hạm đội Anh-Pháp do Đề đốc David Price và Febrier-Despointes chỉ huy bao vây đoàn tàu chiến Nga do Đề đốc Yevfimy Vasilyevich Putyatin chỉ huy tại Petropavlovsk thuộc bán đảo Kamchatka. Tháng 9 năm 1854, sau khi dùng súng từ chiếm hạm bắn nát thành phố, hơn 800 quân lính Anh-Pháp đổ bộ nhưng bị phản kích mãnh liệt và phải rút lui, chịu thiệt hại nặng nề. Đến mùa xuân năm 1855, quân Nga rút lui khi quân đồng mình đem tiếp viện đến tấn công lần nữa.
Ý ủng hộ Đồng minh
Trong khi hô hào phong trào thống nhất nước Ý, Camillo Benso nghe lời Victor Emmanuel II gởi quân lính theo ủng hộ Anh-Pháp. Mục đích của Camillo Benso là vuốt ve Pháp để tăng thế lực cho khu vực Piedmont của Ý, và qua đó có thể Piedmont được hội nhập vào nước Ý thống nhất.
Chiến tranh kết thúc
Đế quốc Ottoman mất phần lớn lãnh thổ (màu vàng) sau các cuộc phân tranh 1856-78 Sau khi nhận được tin về thảm bại tại Sevastopol, Nga hoàng Nikolai I trở nên rất buồn phiền. Ông bị viêm phổi và qua đời ngày 2 tháng 3 năm 1855, con trai là Aleksandr II lên thay. Sau khi Sevastopol thất thủ, Nga bắt đầu thương lượng hòa bình với phe đồng minh và ký hòa ước tại Paris năm 1856. Quy ước hàng hải giữa Nga và Ottoman định lại ranh giới chủ quyền vùng biển Đen. Nga phải chịu thiệt thòi vì hải quân Nga sẽ không còn khả năng kiểm soát khu biển như trước đó. Ngoài ra, theo hòa ước Paris Đế quốc Ottoman được các cường quốc châu Âu công nhận.
Hậu quả
Hòa ước Paris được tôn trọng đến năm 1871 thì Pháp bị Đế quốc Đức đánh bại (Chiến tranh Pháp-Phổ (1870-1871)), hoàng đế Pháp là Napoléon III bị truất phế và chính phủ Đệ tam Cộng hòa Pháp ra đời.
Nga lợi dụng tình thế và dựa theo ủng hộ của thủ tướng Đức Otto von Bismarck tái thiết căn cứ hải quân Nga tại biển Đen, không tuân theo quy ước hàng hải đã ký tại Paris.
Đế quốc Áo không theo Nga khi trước nay lại bị cô lập. Áo thua Phổ trong cuộc phân tranh Áo – Phổ năm 1866 và mất chủ quyền các lãnh thổ nói tiếng Đức. Áo sau đó phải phụ thuộc vào Phổ và trở thành một khu vực hành chính của Đức - tạo rắc rối sau này đưa đến Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Thiệt hại của đôi bên trong chiến tranh
