✨Đảng Dân chủ Việt Nam
Đảng Dân chủ Việt Nam là chính đảng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản, trí thức yêu nước và tiến bộ Việt Nam, hoạt động từ năm 1944, tên ban đầu là Việt Nam Dân chủ Đảng hay Việt Nam Tân dân chủ Đảng. Tiền thân là Tổng hội sinh viên Đại học Tổng hợp Hà nội năm 1940, sau các nhóm sinh viên yêu nước hợp nhất thành lập đảng. Đảng tham gia Việt Minh, Dương Đức Hiền tham gia Tổng bộ Việt Minh, sau đó lại tách ra... và tham gia Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Trong Quốc hội khóa I năm 1946, đảng giành 46 ghế, do Đỗ Đức Dục và Tôn Quang Phiệt lãnh đạo. Đảng có 2 ghế trong Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (Dương Đức Hiền, Cù Huy Cận) và 4 ghế trong chính phủ lâm thời, đến tháng 3 năm 1946 (Dương Đức Hiền, Cù Huy Cận, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe). Ở Nam bộ ban đầu các đảng viên hoạt động như là nhóm Tân Dân chủ (Huỳnh Văn Tiểng lãnh đạo, năm 1945). Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ tháng 12 năm 1946, đảng lại gia nhập Việt Minh.
Từ năm 1954 đến 1975, đảng hoạt động tại miền Bắc Việt Nam (Đảng bộ tại miền Nam về hình thức tách ra năm 1961 vẫn lấy ngày thành lập năm 1944, thành lập Đảng Dân chủ tham gia Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tới 1975), và từ 1975 đến 1988 trên toàn Việt Nam.
Kể từ Quốc hội khóa II, ứng cử viên tranh cử trong khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Lịch sử
Hình thành
Nhóm Dương Đức Hiền
Trong bối cảnh và điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam những năm 1939–1945, các tầng lớp trí thức, sinh viên, viên chức và một số người thuộc các tầng lớp trung lưu khác ở thành thị đã có những chuyển biến về tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc và khả năng tham gia đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Thời kỳ này trong giới trí thức đã hình thành nhiều nhóm và tổ chức khác nhau, nổi lên trong đó là nhóm của ông Dương Đức Hiền được hình thành từ đầu năm 1941 gồm những trí thức đã tốt nghiệp các trường Đại học Luật, Y, Dược, Khoa học, Nông Lâm và những sinh viên người Bắc, Trung, Nam bộ hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Đông Dương. Họ là những người muốn tìm con đường đấu tranh cứu nước, giải phóng dân tộc. Hoạt động của nhóm trí thức Dương Đức Hiền trong buổi đầu là những hình thức hợp pháp, mang đặc trưng của giới thanh niên, học sinh, sinh viên, mang tính chất tự phát, chưa có nội dung cách mạng sâu sắc, nhưng đã góp phần khơi gợi lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức chống xâm lược, chống chế độ cường quyền bất công, yêu thương đồng bào trong giới trí thức, sinh viên, học sinh, viên chức, tư sản dân tộc và đã gây được tiếng vang trong một số thành phố. Chính quyền thực dân Pháp lo sợ, tìm cách đối phó bằng nhiều thủ đoạn: mua chuộc, lôi kéo, doạ dẫm, kiểm duyệt gắt gao nội dung các vở kịch, các bài diễn thuyết, cho tay chân đi kích động chia rẽ, khủng bố... Sở Liêm phóng Hà Nội đã gọi ông Dương Đức Hiền đến để đe doạ, Đại Việt Nguyễn Tường Tam, Quốc Dân đảng Vũ Hồng Khanh cũng gặp gỡ ông để thuyết phục ông tham gia đảng của họ.
Lúc này Đảng Cộng sản Đông Dương thực hiện chủ trương: tranh thủ, vận động trí thức, tư sản dân tộc và các tầng lớp trung gian ở thành thị (nhất là ở các thành phố lớn) ủng hộ mặt trận Việt Minh. Đảng đã chú ý đến hoạt động của nhóm trí thức Dương Đức Hiền và cử cán bộ đến gặp gỡ, đưa chương trình hoạt động, điều lệ tổ chức của Mặt trận Việt Minh cho nhóm nghiên cứu. Nhiều cuộc gặp gỡ bí mật đã diễn ra để trao đổi, giúp nhóm nhận rõ tình hình thế giới và tình hình trong nước, nhận rõ âm mưu của thực dân Pháp, phát xít Nhật và tình thế thất bại cuối cùng của phe phát xít và việc cần phải đoàn kết với những người cộng sản, với công nông, dùng bạo lực đánh đuổi phát xít Nhật và thực dân Pháp, giải phóng cho dân tộc.
Đảng này lấy lại tên cũ là Đảng Dân chủ Việt Nam, để nhấn mạnh đảng được phục hoạt và phát triển ở thế kỷ 21, các nhà lãnh đạo đảng thường sử dụng tên gọi tắt khác là Đảng Dân chủ thế kỷ 21, tên này được sử dụng rộng rãi thay vì dùng tên chính thức.. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Văn Tiểng, cố Uỷ viên Thường vụ Đảng Dân chủ Việt Nam từ năm 1944 đến năm 1988, thì: "Bản thân ông Chính đã bị khai trừ khỏi Đảng Dân chủ từ lâu; khi không được sự đồng tình của số đông cựu đảng viên ông không có quyền và không đủ tư cách đứng ra khôi phục Đảng", và "Đảng Dân chủ hiện nay mà ông Hoàng Minh Chính lên tiếng 'khôi phục' thì về bản chất đã khác Đảng Dân chủ từng tồn tại từ năm 1944 đến 1988."
Các đảng viên chủ chốt
Các nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng Dân chủ và các chức vụ từng giữ qua:
- Dương Đức Hiền: sáng lập đảng và là Tổng Thư ký đầu tiên của Đảng giai đoạn 1944 - 1958, Bộ trưởng Bộ Thanh niên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Ủy ban Thường trực Quốc hội khóa I và khóa II
- Nghiêm Xuân Yêm: Tổng thư ký từ năm 1958 đến khi giải thể (1988); từng giữ qua chức vụ Bộ trưởng lần lượt các Bộ: Nông nghiệp, Canh nông, Nông Lâm, Nông nghiệp, Bộ Nông trường; Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
- Vũ Đình Hòe: cố Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục và Bộ trưởng Bộ Tư pháp
- Trần Đăng Khoa: Phó Tổng thư ký, Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi
- Đỗ Đức Dục: thành viên sáng lập, Phó Tổng Thư ký, Thứ trưởng Bộ Văn hóa
- Phan Mỹ: luật sư, cố Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng
- Trần Kim Lý: cố Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng bộ Đảng Dân chủ tại Thành phố Hà Nội; Đại biểu Quốc hội các khoá III, IV, V, VI và Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội khóa VII
- Huỳnh Văn Tiểng: nhà báo, cố Ủy viên Thường vụ Đảng Dân chủ Việt Nam, Phó Tổng Biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam, Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa V.
- Nguyễn Tấn Gi Trọng: giáo sư, bác sĩ, Uỷ viên Thường vụ Đảng Dân chủ Việt Nam, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Bộ môn Sinh lý Trường Đại học Y khoa Hà Nội; Đại biểu Quốc hội các khoá I, II, III, IV, V, VI và VII.
- Hoàng Minh Chính (bị khai trừ): cựu Tổng Thư ký
- Hoàng Văn Đức: Đại biểu Quốc hội khóa I
- Vũ Trọng Khánh: cố Bộ trưởng Bộ Tư pháp
- Đặng Thai Mai
- Ca Văn Thỉnh
- Trần Bửu Kiếm
- Tôn Quang Phiệt
- Cù Huy Cận
- Đào Đức Thông
- Hoàng Văn Đức
- Nguyễn Thị Thục Viên
