✨Danh sách làn điệu chèo
Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200 làn điệu, chủ yếu được hình thành và bắt nguồn từ các làn điệu dân ca, ca dao, thơ giàu chất văn học đằm thắm trữ tình...
Làn điệu là một thuật ngữ được các nghệ nhân quen gọi cho các điệu hát, làn hát trong một số thể loại sân khấu, thường thấy ở chèo, kịch hát, dân ca. Làn điệu chèo phát triển từ dân ca Bắc Bộ theo hình thức hát nói làn, phổ văn biền ngẫu, điệu phổ các thể thơ vào điệu hát chèo. Làn thì theo sát lời thơ. Điệu khác với làn ở chỗ nhấn mạnh vai trò âm nhạc hơn. Những bài hát của các nhạc sĩ làm chèo mới tính từ năm 1956 đến nay, chưa có sáng tác mới nào được "gia nhập hội" những làn điệu chèo.
Danh sách các làn điệu chèo
Dưới đây là danh sách các làn điệu chèo có trong cuốn "120 làn điệu chèo đặc sắc Việt Nam" của NXB Thanh niên 2015:
Hệ thống làn điệu
Làn điệu chèo được chia ra thành hệ thống như sau: Hệ thống làn điệu đối đáp, trữ tình: 22 điệu, Hệ thống làn điệu đường trường: 17 điệu, Hệ thống đường trường thường là những điệu hát có cấu trúc lớn bao gồm nhiều trổ và có kĩ thuật phức tạp. Những điệu hát trong hệ thống này thường mang tính chất trữ tình và diễn tả những trạng thái nội tâm khá phức tạp của nhân vật. Hệ thống làn điệu sắp: 29 điệu. Mô hình hát sắp thường mang tính chất hát nói, tiết tấu nhanh, vui vẻ, sôi nổi, thể hiện sự phấn chấn, lạc quan trong đó có cả những bài hát sắp mang tính giễu cợt để dùng cho các vai hề như: Sắp mưa ngâu, sắp đan lồng, sắp dựng. Hệ thống làn điệu hề: 28 điệu. Đây là những hệ thống làn điệu chuyên dùng cho các vai: Hề gậy, hề mồi có tính chất vui vẻ, gây cười và nhiều lúc dùng để châm biếm và giễu cợt. Hệ thống làn điệu ra trò: 36 điệu. Tiêu biểu như: Gió thổi màn loan, Quá giang, Con gà rừng Hệ thống làn điệu vãn, thảm: 10 điệu. Hát vãn thường dùng cho nhân vật trong những hoàn cảnh buồn khổ, than thân trách phận, ngậm ngùi xót xa. Hệ thống làn điệu nói sử: Hát sử và nói sử là lối nói đặc biệt quan trọng trong việc hình thành phong cách âm nhạc kể chuyện của chèo, nó mang tính tự sự rõ rệt nhưng rất chú ý đến việc vận dụng ngữ khí âm sắc. Khi thể hiện thì lại mang âm điệu đĩnh đạc và có tiết tấu nhất định. Nó dùng để thể hiện cho nhiều nhân vật ở những hoàn cảnh cần phải thể hiện rõ nét hơn. Hệ thống làn điệu sa lệch: Hệ thống sa lệch thể hiện tính chất trữ tình, đằm thắm thiết tha, đôi khi có chút dỗi hờn và sự buồn thương man mác. Hệ thống làn điệu nói, vỉa, ngâm vịnh. Hệ thống chỉ có một làn điệu như một bài hát riêng được gọi là bài ca lẻ trong chèo. Bài ca lẻ không đứng trong một hệ thống làn điệu nhưng mang giá trị thẩm mỹ cao như: Quân tử vu dịch, Đào liễu, Đào lý, Tình thư hạ vi, Bình thảo, Chức cẩm hồi văn, Lới lơ... bản thân mỗi làn điệu đó cũng là một mô hình âm nhạc nhưng chưa được bẻ làn nắn điệu và chuyển hóa mô hình thành một điệu khác. Giới chuyên môn cũng chia các làn điệu chèo thành hai loại: chuyên dùng và đa dùng. Chuyên dùng là chỉ dùng cho một số nhân vật trong các vở diễn nào đó như trong vở Quan âm Thị Kính có điệu kể hạnh, ru kệ, ba than cho vai Thị Kính; trong vở Kim Nham có điệu con gà rừng, hát xuôi hát ngược... dành cho vai Xúy Vân. Còn các làn điệu đa dùng được dùng trong nhiều vở diễn, có nhiều hoàn cảnh khác nhau như lới lơ, luyện năm cung.
Các làn điệu chèo có nguồn gốc phần lớn từ các vở chèo cổ như: Vở chèo Quan Âm Thị Kính: Sử rầu, gối hạc, ba than, Bình thảo, Chi tải vu quy, Nói lệch, cấm giá, Đường trường phải chiều, Hát đúm, Sắp thường, Làn thảm, Vỡ nước, Rỉ vong, Ru kệ, Sử chuyện, Ví hề, Sử xuân, Sử chúc, Sắp chợt,... Vở chèo Lưu Bình Dương Lễ: Hề sư cụ, Hề tiểu gấm hoa chanh, Quân tử vu dịch, Sử xếp, Sa lệch chênh, Tình thư hạ vị, Ngâm bốn mùa, Sử bằng, Nói sử ghé rầu,...; Vở chèo Trương Viên: Hề mồi đồn rằng, Luyện năm cung, Trần tình, Gió thổi màn loan, Hoài thai, Vãn canh 2, Vãn cầm, Vãn theo, Vãn xô, Xẩm tàu điện...; Vở chèo Từ Thức gặp tiên: Đường trường thu không, Ván cờ tiên, Chèo quế, Dương xuân, Hề tiểu, Hát cách, Tuyết dạt sông Thương, Sắp đặt để mà chơi, các làn điệu hề gậy theo thầy,...; Vở chèo Kim Nham: Bà chúa con cua, Con gà rừng, Hát xuôi hát ngược, Hề cu sứt, Lới lơ, Rủ nhau lên núi thiên thai, Sắp cổ phong, Sắp cá rô, Khấn hàng, Tò vò, Quá giang, Vãn canh 1,... Vở chèo Chu Mãi Thần: ''Hò bắt đò, Có thánh trị vì, Vỉa Huế: dậm chân, sắp sông dâu, suông hời, Thiếp tôi trả lại cho chàng, Hề gậy đốt nhọ bôi mồm, Hề mồi thắt dải lưng xanh, Sắp bắt hề, Hề mồi ba mươi tết' Vở chèo Trinh Nguyên: Hề ông đồ (Bồ kếch bồ các), Rỉ vong, ba than, Xẩm xoan, Xẩm dựng, Xẩm thầy bói; Vở chèo Tấm Cám:Chinh phụ, Hát ru, Ru bống; vở chèo Kiều: Du xuân, Quạt màn, Hải đường,...
Mỗi làn điệu chèo đều có những chức năng biểu cảm, diễn đạt trạng thái của nhân vật trong hoàn cảnh cụ thể. Trong chèo có những làn điệu tiêu biểu như: Đào liễu, Lới lơ, Đò đưa, Làn thảm chứa trong mình đủ những yếu tố quan trọng của thanh nhạc: trữ tình, kịch tính và màu sắc. Có những làn điệu độc đáo như Con gà rừng, Nón thúng quai thao, Du xuân, Tứ quý... thể hiện tâm hồn con người rất phong phú, tràn ngập những tình cảm như lãng đãng, phất phơ, chòng chành, sương khói... Giai điệu trong làn điệu chèo phản ánh tương đối đầy đủ các trạng thái hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục của con người. Ví dụ ở trạng thái vui vẻ có điệu Hồi tiếu, Lão say, Sắp dựng, Dương xuân...; trạng thái buồn tủi có: Sử rầu, Ba than, Vãn cầm, Vãn theo, Trần tình...; tâm sự yêu thương có: Tình thư hạ vị, Đào liễu, Quân tử vu dịch, Đường trường duyên phận, Sử truyện...nhỏ|phải|Các nghệ sĩ Nhà hát chèo Việt Nam biểu diễn ở bờ Bắc sông Bến Hải, năm 1956)
