✨Đào Duy Từ
nhỏ nhỏ|Bia tiểu sử Đào Duy Từ mặt sau tại đền thờ Đào Duy Từ, khu phố Cự Tài, [[Hoài Nhơn Tây|P. Hoài Nhơn Tây, tỉnh Gia Lai]] nhỏ|Đền thờ Đào Duy Từ (Kp. Cự Tài, phường [[Hoài Nhơn Tây, T. Gia Lai) do Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên sai lập năm 1634.]] nhỏ|Quang cảnh từ đường Đào Duy Từ ở KP. Ngọc Sơn Bắc, [[Hoài Nhơn (phường)|Phường Hoài Nhơn, tỉnh Gia Lai do Vua Tự Đức cho xây năm 1859.]] nhỏ|Tượng Đào Duy Từ tại Từ đường Đào tộc Đông Trang miền Nam, 104 Đào Sư Tích, Dĩ An, Bình Dương Đào Duy Từ (chữ Hán: 陶維慈, 1572 - 7 tháng 12 năm 1634) là nhà quân sự, nhà thơ và nhà văn hóa, danh thần thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Chỉ vỏn vẹn 8 năm phò Chúa Sãi từ 1627 đến 1634 nhưng Đào Duy Từ đã khắc hoạ hình ảnh đặc dị một người thầy của Chúa Sãi, một kiệt tướng, một chính trị gia, một chiến lược gia, một kiến trúc gia, một kỹ thuật gia, một nghệ sư tài hoa, một học giả, cũng như là người góp phần quan trọng định hình được nhà nước, địa lý và bản sắc Đàng Trong. Nhà Nguyễn công nhận ông là đệ nhất khai quốc công thần và thờ ông ở Thái miếu.
Thời trẻ
Đào Duy Từ, hiệu là Lộc Khê, quê ở xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa, Đại Việt (nay là tổ dân phố Nổ Giáp 2, phường Đào Duy Từ, tỉnh Thanh Hóa). Cha ông tên là Đào Tá Hán, một xướng hát chuyên nghiệp (có bản dịch là Đào Duy Hán). Cha Duy Từ mất khi ông lên 5 tuổi, ông được mẹ là Vũ Kim Chi nuôi ăn học. Lúc bấy giờ, Duy Từ đang ở Hội văn trên Thăng Long dự thi và có bài văn được cho là hay nhất trường thi ở Thanh Hóa. Khi quan thái phó Nguyễn Hữu Liêu đang phân vân chấm Duy Từ vì một số bài bàn về cải cách chính trị có hơi trái ý chúa Trịnh Tùng thì bộ Lễ truyền lệnh xóa tên Vũ Duy Từ, đánh tuột Á Nguyên, lột mũ áo và đuổi về.
Vào Nam
Sau khi bị lột hết áo mũ và bị đuổi về quê, Duy Từ sống bằng nghề dạy học. Một hôm ông nói với bạn rằng: Tôi nghe chúa Nguyễn hùng cứ đất Thuận Quảng, làm nhiều việc nhân đức, lại có lòng yêu kẻ sĩ, trọng người hiền... Nếu ta theo vào giúp thì chẳng khác gì Trương Lương về Hán, Ngũ Viên sang Ngô, có thể làm tỏ rạng thanh danh, ta không đến nỗi phải nát cùng cây cỏ, uổng phí một đời.... Rồi mùa đông năm Ất Dậu (1625), Đào Duy Từ trốn được vào xứ Đàng Trong. Đầu tiên, ông ở huyện Vũ Xương hơn một tháng để nghe ngóng tình hình. Ông đi tìm chúa Nguyễn nhưng đến nơi thì không gặp do chúa đã đi xa để kinh lý. Hết tiền tiêu, Duy Từ phải tìm đường khác. Ông dò được là Khám lý Trần Đức Hòa vốn là một thân tín của chúa Nguyễn nên đi đến Quy Nhơn để kiếm cơ lập thân. Thời gian này, Duy Từ thường ngâm bài "Ngọa Long cương vãn" bằng quốc âm để tự sánh mình với Gia Cát Lượng khi xưa.
Năm 1629, Chúa Trịnh Tráng muốn lấn vào Nam bèn sai Nguyễn Khắc Minh đi mang tiếng là phong tước cho Chúa Nguyễn nhưng đồng thời cũng để dò xét. Đào Duy Từ, khi này là Tham tán, bèn khuyên Chúa Nguyễn che giấu lực lượng và tạm nhận phong để hòa hoãn với Chúa Trịnh. Chúa Trịnh cũng đồng thời đòi Chúa Nguyễn cho con ra Bắc chầu, nộp 30 voi đực và 30 chiến thuyền để đi cống nhà Minh bên Trung Quốc, Đào Duy Từ khuyên là không thực hiện rồi bày kế cho chúa Nguyễn đắp lũy Trường Dục để phòng thủ. Chúa Nguyễn nghe theo và thực hiện ngay.
Dư bất thụ sắc
Về sắc phong, vào năm 1630, Đào Duy Từ cho người làm một mâm đồng khắc chữ, hai đáy bên trong đựng sắc của chúa Trịnh, trên phủ lụa vàng rồi sai Trần Văn Khuông đi sứ. Trần Văn Khuông theo lời Đào Duy Từ dặn dò, đối đáp, dâng mâm cho chúa Trịnh, rồi kiếm cớ trốn về. Chúa Trịnh, thấy sứ đoàn đi vội, sinh nghi, bèn cho lục mâm đồng thì thấy mâm khắc kèm bài thơ: :Mâu nhi vô dịch :Mịch phi kiến tích :Ái lạc tâm trường :Lực lai tương địch!
Cả triều không ai hiểu. Giai thoại kể rằng chúa Trịnh cho mời Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613, trong khi sự kiện này xảy ra năm 1630 nên không chính xác) đến hỏi thì mới vỡ lẽ, trong chữ Hán, chữ mâu (矛) viết không có dấu phết thì thành chữ dư (予). Chữ mịch (覔) mà bỏ chữ kiến (見) là chữ bất (不). Chữ ái (愛) nếu viết thiếu chữ tâm (心) thì ra chữ thụ (受). Chữ lực (力) để cạnh chữ lai (來) sẽ thành chữ sắc (勑). Thế thì bốn câu trên là: dư bất thụ sắc (ta không nhận sắc). Chúa Trịnh cho bổ đôi mâm ra thì thấy bên trong có để tờ sắc phong đã ban cho chúa Nguyễn trước kia, nổi giận cho người đuổi theo sứ đoàn chúa Nguyễn thì cả sứ đoàn đã đi hết. Chúa Trịnh muốn ra quân đánh chúa Nguyễn nhưng gặp lúc Cao Bằng và Hải Dương đều có giặc giã nổi lên, đành phải hoãn lại. phải|nhỏ|Di tích [[Quảng Bình quan thuộc lũy Thầy được xây năm 1631 theo lời Đào Duy Từ.]] Tháng 3 năm Canh Ngọ (1630), Đào Duy Từ khuyên Chúa Nguyễn đắp lũy Trường Dục từ núi Trường Dục đến phá Hạc Hải nhằm ngăn chặn quân Trịnh ngược dòng sông Nhật Lệ vào đánh xứ Đàng Trong. để tăng cường phòng thủ, Đào Duy Từ bèn bày cho Chúa Nguyễn đánh chiếm phía nam sông Gianh rồi đắp để phòng thủ. Tháng 9 năm Canh Ngọ (1630), theo đề nghị của Đào Duy Từ, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho mở cuộc tấn công vào châu Nam Bố Chính và chiếm được châu này.
Ngoài giúp Chúa Nguyễn đối phó Chúa Trịnh, Đào Duy Từ còn nhiều lần khuyên khéo được chúa Nguyễn việc chính sự, ngoài ra còn tiến cử con rể của mình là Nguyễn Hữu Tiến cho Chúa Nguyễn. Nguyễn Hữu Tiến về sau cũng trở thành một công thần của các chúa Nguyễn như cha vợ mình.
Qua đời
Tháng Mười năm Giáp Tuất (1634), Đào Duy Từ lâm bệnh nặng rồi mất, thọ 63 tuổi. Năm 1836, cho sửa sang mộ phần.
Theo Tôn Thất Thọ "Nhân dân nhiều thế hệ đã không có ý gì chê trách ông không trung thành với vua Lê chúa Trịnh; cũng không một ai nghĩ rằng ông đã giúp chúa Nguyễn vì ý đồ cát cứ chia cắt giang sơn, tất cả đều quý trọng ông ở một điểm: Ông là một tài năng kiệt xuất và là một vị quan có nhân cách hiếm có của lịch sử nước nhà."
Từ đó đến nay, tại Việt Nam có hàng trăm đường phố và trường học ở khắp các địa phương được đặt theo tên ông để ca ngợi.
Tác phẩm
"Ngọa Long cương vãn", bài thơ Duy Từ hay ngâm lúc chưa làm quan để ví mình như Gia Cát Lượng. "Hổ trướng khu cơ", là tác phẩm do Đào Duy Từ soạn ra để dạy các tướng sĩ của xứ Đàng Trong. Đó là cuốn binh pháp viết về nghệ thuật quân sự “độc nhất vô nhị” của Việt Nam còn nguyên vẹn và được lưu truyền cho đến ngày nay. Khác hẳn với nhiều cuốn binh pháp, hổ trướng khu cơ được biên soạn thiên về mặt thực hành hơn là mặt lý luận quân sự và được viết theo quan điểm cổ truyền của thuyết Tam tài “Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa” gồm Tập thiên, Tập địa, Tập nhân. Chủ yếu trình bày về phương pháp, kỹ chiến thuật đánh trận và kỹ thuật chế tạo binh khí, phản ánh nhiều vấn đề cơ bản của truyền thống quân sự Việt Nam. *"Tư Dung Vãn" (ca ngợi cửa biển Tư Hiền ở Thừa Thiên), viết bằng chữ Nôm theo thể văn vần được các nhà nghiên cứu đánh giá cao xếp hàng đầu trong những tác phẩm văn học viết của nền văn học Đàng Trong.
Gia đình
Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn ghi vợ sau của ông là Trần Thị Chính, con gái của Khám lý Cống Quận Công Trần Đức Hòa. Bà họ Trần không có con. Theo quy định “tam tòng tứ đức” ngày xưa, phụ nữ không có con bị quy vào tội “bất hiếu”, có thể vì lẽ này bà họ Trần không được chép vào gia phả. Vợ đầu là Cao Thị Nguyên, sau khi ông mất thì đi tu năm 1637 mà chùa nay là chùa Bà, phường Hoài Nhơn, T. Gia Lai. Con cháu Đào Duy Từ hiện nay là hậu duệ của bà vợ Cao Thị Nguyên này. Đào Thị Hưng, người con gái của Đào Duy Từ thì gả cho Nguyễn Hữu Tiến, danh tướng của 3 đời chúa Nguyễn.
Hậu duệ Đào Duy Từ có:
- Đào Duy Mưu (tức Đô đốc Mưu), cháu đời thứ 7, tướng Nhà Tây Sơn, từng dẫn quân đánh trận Đống Đa năm 1789.
- Thiệu Quang Hầu Đào Duy Mẫn, Hạc Toán Hầu Đào Duy Niệm, Xuân Quang Hầu Đào Duy Tàng (cháu đời thứ 7) theo phò tá Chúa Nguyễn Ánh.
- Đào Tấn, cháu đời thứ 9, quan nhất phẩm Thượng thư Bộ Binh, Thượng thư Bộ Hình, người có công phát triển nghệ thuật tuồng đời Nhà Nguyễn.
