✨Đồ gốm Nhữ
nhỏ|Chậu thủy tiên với men màu xanh lục ánh lam sáng, [[Bảo tàng Cố cung Quốc gia, Đài Loan.]] nhỏ|Bát gốm Nhữ với gờ miệng kim loại, [[Bảo tàng Anh.]] nhỏ|Nhóm đồ gốm Nhữ trong bộ sưu tập Percival David.
Đồ gốm Nhữ hay Nhữ diêu (汝窯) là một loại đồ gốm Trung Quốc nổi tiếng và rất hiếm, được sản xuất dưới thời nhà Tống, với loại Nhữ quan diêu (汝官窯) được sản xuất cho triều đình trong một khoảng thời gian ngắn khoảng 20-40 năm xung quanh năm 1100. Hiện nay tồn tại chưa tới 100 hiện vật hoàn hảo, mặc dù có những hiện vật mô phỏng muộn hơn không hoàn toàn trùng khớp với các hiện vật gốc. Phần lớn các hiện vật có màu men lam "trứng ngỗng" nhạt khác biệt, giống như "màu thiên thanh trong khoảng trống giữa các đám mây sau cơn mưa" (雨過天青雲破處) theo các học giả nghiên cứu gốm sứ cổ. (Mô tả này cũng có thể được áp dụng cho loại đồ gốm thậm chí còn hiếm hơn và có lẽ chỉ là huyền thoại, là đồ gốm Sài (柴窯, Sài diêu) trong thế kỷ 10,) và nói chung không được trang trí, dù màu sắc của chúng thay đổi và đạt tới mức như màu xanh lục men ngọc.
Đồ gốm Nhữ là một trong Ngũ đại danh diêu được các học giả Trung Quốc sau này ghi nhận. Các vật gốm này được dành cho triều đình, theo Chu Huy (1126-1198) thời Nam Tống thì triều đình cấm nung đồ gốm Nhữ trong dân chúng, và chỉ những gì hoàng cung từ chối mới được bán ra bên ngoài. Chu Huy cũng viết rằng men của đồ gốm Nhữ có chứa mã não, Màu ánh lam có thể là do sắt oxit hòa tan với lượng rất nhỏ titan dioxit.
Đồ gốm Nhữ có lẽ là "đồ gốm quan" đầu tiên được triều đình đặc biệt đặt mua. Việc sản xuất kết thúc khi các lò nung gốm bị đội quân của nhà Kim xâm lược và lật đổ triều đại Bắc Tống cuối thập niên 1120 (hoặc một thời gian ngắn trước đó) chiếm đóng, nhưng đồ gốm Nhữ vẫn nổi tiếng và được săn đón nhiều.
Đặc trưng
nhỏ|Đĩa đựng chén với minh văn dưới đáy Thọ Thành điện (壽成殿), [[Bảo tàng Victoria và Albert.]] nhỏ|Hình chụp gần lớp men rạn.
Các hiện vật chủ yếu là vật dụng nhỏ, dùng để uống, dùng ở bàn của các học giả, để đốt hương/trầm, hay các đồ đựng nhỏ. Có một vài "chậu thủy tiên" hình bầu dục, được người ta cho là để trồng hoa thủy tiên. Nhiều hiện vật có lớp men rạn hay vết nứt tinh tế, mặc dù có một số bằng chứng cho thấy các hiện vật được ngưỡng mộ nhất là những vật không có lớp men rạn này, và hiệu quả này không phải là cố ý. Những hình dạng nào không phải là dạng đồ gốm đơn giản cho thấy sự bắt nguồn từ các đồ vật làm từ các vật liệu khác, như đồ kim loại hoặc đồ sơn mài, ví dụ như đĩa đựng cốc/chén không đáy, là hình dạng phổ biến ở cả hai loại vật liệu này. Hầu hết các hình dạng đều có "gờ chân được xác định rõ ràng, hơi loe ra". duy trì sự che phủ trên các gờ ở phía trên và phía dưới của các hiện vật, khác với với đồ sứ Định cạnh tranh là sản phẩm được nung úp ngược và như thế với phần gờ thô không tráng men, thường được bao phủ bằng một dải kim loại. Thay vì thế, đồ gốm Nhữ được tách khỏi bề mặt lò nung bằng cách được đặt trên giá đỡ (chi đinh) là ba hoặc năm cựa hoặc chĩa nhỏ, có lẽ làm bằng kim loại, để lại những đốm nhỏ hình bầu dục không được tráng men được gọi là "chi ma" (hạt vừng) ở mặt bụng. Vì thế mà có thuật ngữ "chi đinh chi ma" (芝麻支釘). Màu sắc của các hiện vật thì thay đổi nhiều và được các học giả Trung Quốc phân loại là "thiên thanh" (xanh da trời), "phấn thanh" (xanh lam nhạt) và "noãn thanh" (xanh lam trứng [ngỗng]), trong các trường hợp đều sử dụng từ thanh (青) trong tiếng Trung, có thể bao hàm cả màu xanh lam và xanh lục. Điều này đã được xác nhận do địa điểm này đã được khai quật bắt đầu từ năm 1987, với khu vực nhà xưởng và lò "gốm quan" được phát hiện vào năm 2000 trong giai đoạn khai quật lần thứ sáu. không có đại diện trong số các hiện vật còn sót lại. Ngoài kiểu dáng cuối cùng này ra thì các kiểu dáng khác đó thường không được gọi là "đồ gốm Nhữ" mà thuộc về nhóm các đồ gốm khác của miền bắc Trung Quốc đương thời.
Các cuộc khai quật cũng tìm thấy những mảnh vỡ có chất lượng "gốm quan", nhưng có hình dạng phức tạp hơn so với những hiện vật nguyên vẹn còn sót lại. Chúng có thể là những mẫu thử chưa được đưa vào sản xuất. Cũng có những mảnh được trang trí theo các kỹ thuật men ngọc thông thường và điều này cũng không tìm thấy ở những hiện vật hoàn chỉnh còn sót lại.
Năm 2006, di chỉ này cũng đã được liệt kê trong danh lục di tích lịch sử văn hóa được bảo tồn cấp toàn quốc lần thứ 6 của Trung Quốc. mặc dù một số học giả cho rằng nó được sản xuất trong khoảng thời gian dài hơn một chút". Phó giáo sư kiêm giám tuyển viên hiện vật nghệ thuật Trung Hoa của Bảo tàng Ashmole Shelagh Vainker thì cho rằng khoảng thời gian này là "khoảng 40 năm". Nó chỉ được sản xuất dưới thời Tống Huy Tông (1100–1126) và có lẽ cả dưới thời vị hoàng đế tiền nhiệm là Tống Triết Tông (1085–1100). Tống Huy Tông dường như là vị vua có sự quan tâm và sở thích cá nhân với đồ gốm sứ. một con số khá nhỏ theo tiêu chuẩn hoàng gia, gợi ý về sự khan hiếm của chúng. Nguồn này cũng ghi rằng vào năm 1179, vị thái thượng hoàng già cả này đi dạo trong một khu vườn, và một chiếc bình gốm Nhữ được đặt ở đó để ông chiêm ngưỡng.
Sưu tập và mô phỏng
nhỏ|phải|Chậu thủy tiên với đáy đề bài thơ của Càn Long. Bảo tàng Cố cung Quốc gia, Đài Bắc. Các hiện vật gốm Nhữ dường như rất hiếm ngay cả trong thời gian chúng được sản xuất, và đã giữ nguyên như vậy, như nhiều học giả Trung Hoa đã viết. Hoàng đế Càn Long (1736-1795), một nhà sưu tập đam mê, chắc hẳn đã từng sở hữu ít nhất một nửa số hiện vật còn sót lại, đã mô tả chúng trong một bài thơ là "như sao buổi sớm" (椀則晨星見一二, oản tắc thần tinh kiến nhất nhị). Khi lùi xa theo thời gian thì danh tiếng của chúng gần như trở thành huyền thoại, mặc dù nhiều học giả ca ngợi chúng có thể chưa bao giờ từng được nhìn thoáng qua những hiện vật này.
Tuy nhiên, sau đồ gốm Quan thì dường như không có nỗ lực mô phỏng chúng ở Trung Quốc cho đến thế kỷ 18, khi dưới thời Hoàng đế Ung Chính (1723–1735), chúng đã được sao chép trong đồ gốm ngự dụng Cảnh Đức Trấn, với các hiện vật từ bộ sưu tập hoàng cung được gửi đến Cảnh Đức Trấn để sao chép. Chúng được gọi là đồ gốm "kiểu Nhữ". Hoàng đế Càn Long đã đề thơ trên một vài hiện vật. Càn Long cũng từng ra lệnh cho quan giám sát sản xuất gốm sứ (đốc đào quan) là Đường Anh (唐英, 1682-1756) dựa theo phương thức sản xuất của gốm Nhữ để mô phỏng chúng.
Mô phỏng trong đồ gốm Cao Ly bắt đầu không lâu sau khi đồ gốm Nhữ được sản xuất, với các hiện vật của gốm Cao Ly trong một thời gian dài thường bị nhầm lẫn với các hiện vật gốc của Trung Quốc.
Các bộ sưu tập
phải|nhỏ|Hai chiếc bát trong bộ sưu tập Percival David. Năm 2012, Sotheby's đã xác định được 79 hiện vật hoàn chỉnh còn tồn tại, Krahl đã thêm và bớt một số hiện vật từ danh sách này. nhưng đã sửa lại thành 61 hiện vật bao gồm cả những hiện vật ở Trung Quốc trong ấn bản lần hai năm 1980; ngay cả trong số các viện bảo tàng thì kiểm đếm và số lượng có phần khác với danh sách mà Sotheby's đưa ra năm 2012. Điều này dựa trên danh sách của Degawa Tetsuro trong một danh lục triển lãm năm 2009, với một số bổ sung. Bảo tàng Hà Nam có một chiếc bình với trang trí mà người ta nói rằng nó được khai quật vào năm 1987 tại khu lò gốm Thanh Lương Tự. Một dự án nghiên cứu tại Bộ sưu tập Nghệ thuật bang Dresden đã dẫn đến việc xác định một chiếc bát gốm Nhữ trong bộ sưu tập đồ sứ vào năm 2021.
Triển lãm
Năm 2016, một cuộc triển lãm tại Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh bao gồm 29 hiện vật hoàn chỉnh, cộng với 4 hiện vật được phục dựng lại từ một lăng mộ và nhiều mảnh vỡ từ quá trình khai quật. 30 hiện vật "kiểu Nhữ" muộn hơn cũng được trưng bày. Bảo tàng Cố cung Quốc gia ở Đài Bắc cũng có một cuộc triển lãm vào năm 2006–2007. Cả hai đều bao gồm các hiện vật mượn từ Bảo tàng Anh và các bảo tàng khác, nhưng cho đến nay các bộ sưu tập của Đài Bắc và Bắc Kinh vẫn chưa có một cuộc triển lãm chung nào.
Giá trị trên thị trường nghệ thuật, đồ cổ
Vào ngày 4 tháng 4 năm 2012, Sotheby's Hồng Kông đã bán một chiếc bát rửa bút lông, có bề ngang 13,6 cm tại miệng, 8,5 cm tại đế, cao 3,7 cm và nặng 150 g, là một chiếc trong đôi với chiếc bát trong Bảo tàng Anh, với giá 207.860.000 HKD (26,7 triệu USD), với kích thước rộng 13 cm (5 inch) đã lập kỷ lục đấu giá mới cho đồ gốm sứ Trung Hoa tại Sotheby's Hồng Kông, đạt mức giá 294,3 triệu HKD, khoảng 37,7 triệu USD.
Thư viện ảnh
