✨Guadeloupe
Guadeloupe (; ; , /ɡwadlup/) là một quần đảo, Vùng hải ngoại và tỉnh hải ngoại của Pháp ở Vùng Caribe. Nó bao gồm 6 hòn đảo có người ở—Basse-Terre, Grande-Terre, Marie-Galante, La Désirade, và 2 hòn đảo ở Îles des Saintes—cũng như nhiều hòn đảo và vùng đất nhô lên không có người ở khác. Nó nằm ở phía Nam Antigua và Barbuda và Montserrat, phía Bắc Thịnh vượng chung Dominica. Thủ phủ của vùng là Basse-Terre, nằm trên bờ biển phía Tây Nam của Đảo Basse-Terre; tuy nhiên, thành phố đông dân nhất là Les Abymes và trung tâm kinh doanh chính là Pointe-à-Pitre lân cận, cả hai đều nằm trên đảo Grande-Terre.
Giống như các tỉnh hải ngoại khác, nó là một phần không thể tách rời của nước Pháp. Là một lãnh thổ cấu thành của Liên minh Châu Âu và Khu vực đồng Euro, vì thế mà đồng euro là tiền tệ chính thức và mọi công dân Liên minh Châu Âu đều được tự do định cư và làm việc ở đó vô thời hạn. Tuy nhiên, với tư cách là một tỉnh hải ngoại, nó không thuộc Khối Schengen. Guadeloupe trước đây bao gồm cả Saint Barthélemy và Saint Martin, nhưng đã được tách ra vào năm 2007 sau cuộc trưng cầu dân ý năm 2003.
Christopher Columbus đã đến thăm Guadeloupe vào năm 1493 trong chuyến hành trình thứ hai và đặt tên cho hòn đảo này. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp; Tiếng Creole Antillean cũng được sử dụng.
Lịch sử
Tiền thuộc địa
thumb|upright|[[hình khắc đá cổ xưa trong Baillif]]
Thổ dân châu Mỹ là dân cư đầu tiên cư trú trên quần đảo, có thể là vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên. Người Arawak là nhóm được xác định đầu tiên, nhưng sau đó họ bị người Kalina-Carib di dời vào khoảng năm 1400. Tuy nhiên, đến năm 1640, Compagnie des Îles de l'Amérique bị phá sản, và do đó họ bán Guadeloupe cho Charles Houël du Petit Pré, người bắt đầu trồng trọt nông nghiệp, với những nô lệ châu Phi đầu tiên đến vào năm 1650. Sự phản kháng của nô lệ ngay lập tức lan rộng, với một cuộc nổi dậy công khai vào năm 1656 kéo dài vài tuần và một loạt các cuộc bỏ trốn hàng loạt kéo dài ít nhất 2 năm cho đến khi người Pháp buộc người dân bản địa ngừng hỗ trợ nô lệ. Quyền sở hữu hòn đảo được chuyển cho Công ty Tây Ấn Pháp trước khi nó được sáp nhập vào Pháp vào năm 1674 dưới sự giám hộ của thuộc địa Martinique thuộc Pháp gần đó.[
Thế kỷ XVIII - XIX
thumb|[[Trận chiến Saintes diễn ra giữa Pháp và Anh vào năm 1782.]] thumb|Bức tượng bán thân của Louis Delgrès, thủ lĩnh cuộc nổi dậy nô lệ năm 1802
Trong Chiến tranh Bảy năm, người Anh đã chiếm đóng quần đảo cho đến khi Hiệp ước Paris năm 1763 được ký kết. Vào thời điểm đó, Guadeloupe thịnh vượng đến mức, theo Hiệp ước Paris năm 1763, Pháp đã mất các thuộc địa của Canada để đổi lấy Guadeloupe. Việc trồng cà phê bắt đầu vào cuối những năm 1720, và đến năm 1775, ca cao cũng đã trở thành một sản phẩm xuất khẩu chính. Năm 1810, người Anh lại chiếm được hòn đảo này và giao lại cho Thụy Điển theo Hiệp ước Stockholm năm 1813.
Trong Hiệp ước Paris năm 1814, Thụy Điển nhượng Guadeloupe cho Pháp, hình thành Quỹ Guadeloupe. Năm 1815, Đại hội Viên thừa nhận quyền kiểm soát của Pháp đối với Guadeloupe.
Chế độ nô lệ bị bãi bỏ ở Đế quốc Pháp vào năm 1848. Những người nô lệ được giải phóng có quyền bầu cử từ năm 1849, nhưng quốc tịch Pháp và quyền bầu cử không được cấp cho công dân Ấn Độ cho đến năm 1923, khi một chiến dịch kéo dài, do Henry Sidambarom lãnh đạo, cuối cùng đã đạt được thành công.
Thế kỷ XX - XXI
Năm 1936, Félix Éboué trở thành thống đốc da đen đầu tiên của Guadeloupe. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Guadeloupe ban đầu nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ Vichy, sau đó gia nhập Nước Pháp Tự do vào năm 1943. Vào tháng 5 năm 1967, căng thẳng chủng tộc bùng nổ thành bạo loạn sau một cuộc tấn công phân biệt chủng tộc nhằm vào một người da đen người Guadeloup, Raphael Balzinc,[28]dẫn đến 8 người chết. resulting in eight deaths.
Phong trào độc lập phát triển vào những năm 1970, khiến Pháp tuyên bố Guadeloupe là một vùng của Pháp vào năm 1974.[4] Liên minh dân chúng pour la libération de la Guadeloupe (UPLG) vận động giành độc lập hoàn toàn, và đến thập niên 1980, tình hình đã trở nên bạo lực với hành động của các nhóm như Groupe de libération armée (GLA) và Alliance révolutionnaire caraïbe (ARC).
Quyền tự chủ lớn hơn được trao cho Guadeloupe vào năm 2000. Những người đình công tức giận với mức lương thấp, chi phí sinh hoạt cao, mức độ nghèo đói cao so với lục địa Pháp và mức độ thất nghiệp thuộc hàng tồi tệ nhất trong Liên minh Châu Âu. Tình hình nhanh chóng leo thang, trở nên trầm trọng hơn bởi những gì được coi là phản ứng kém hiệu quả của chính phủ Pháp, trở nên bạo lực và buộc phải triển khai thêm cảnh sát sau khi một lãnh đạo công đoàn (Jacques Bino) bị bắn chết. Cuộc đình công kéo dài 44 ngày và cũng đã truyền cảm hứng cho những hành động tương tự ở Martinique gần đó. Tổng thống Pháp là Nicolas Sarkozy sau đó đã tới thăm hòn đảo này và hứa hẹn cải cách. Du lịch bị ảnh hưởng nặng nề trong thời gian này và ảnh hưởng đến mùa du lịch 2010.
Địa lý
thumb|Ảnh vệ tinh của Guadeloupe thumb|Rừng tươi tốt ở Basse-Terre thumb|Bản đồ chi tiết của Guadeloupe
Guadeloupe là một quần đảo gồm hơn 12 hòn đảo, cũng như các đảo nhỏ và đá nằm ở Đông Bắc biển Caribe, nơi tiếp giáp với Tây Đại Tây Dương. Hòn đảo này có nhiều núi non, có các đỉnh như Núi Sans Toucher (4.442 feet; 1.354 mét) và Grande Découverte (4.143 feet; 1.263 mét), đỉnh cao là núi lửa đang hoạt động La Grande Soufrière, đỉnh núi cao nhất ở Tiểu Antilles với độ cao cao 1.467 mét (4.813 ft). Basse-Terre là thủ phủ chính trị; tuy nhiên, thành phố lớn nhất và trung tâm kinh tế là Pointe-à-Pitre. Năm 2017, mật độ dân số trung bình ở Guadeloupe là 240 người/km2 (620/sq mi), rất cao so với mật độ trung bình của đô thị Pháp là 119 người/km2 (310/sq mi). Một phần ba đất đai được dành cho nông nghiệp và tất cả các ngọn núi đều không thể ở được; sự thiếu không gian cư trú này khiến mật độ dân số càng cao hơn.
Kinh tế
Nền kinh tế của Guadeloupe phụ thuộc vào du lịch, nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và dịch vụ. Nhập khẩu lên tới 3,019 tỷ euro, trong khi đó xuất khẩu chỉ 1,157 tỷ euro. Các sản phẩm xuất khẩu chính là chuối, đường và rượu rum. Xuất khẩu chuối bị thiệt hại trong năm 2017 do Bão Irma và Bão Maria.
Giáo dục
Văn hoá
Thể thao
