✨Hậu Đường Mẫn Đế
Hậu Đường Mẫn Đế (), tên húy là Lý Tùng Hậu () (914–934), tiểu tự Bồ Tát Nô (菩薩奴), là một hoàng đế của triều Hậu Đường thời Ngũ Đại Thập Quốc, cai trị từ năm 933 đến năm 934. Ông bị con nuôi của cha là Lý Tùng Kha lật đổ.
Thân thế
Lý Tùng Hậu sinh ngày Canh Thân (28) tháng 11 năm Giáp Tuất, tức 17 tháng 12 năm 914, khi đó cha ông là Lý Tự Nguyên đang là tướng của Tấn, dưới quyền Tấn vương Lý Tồn Úc. Mẹ của ông là Hạ phu nhân, Ông là con trai thứ ba (theo Cựu Ngũ Đại sử) Ông sinh tại phủ đệ của Lý Tự Nguyên tại đô thành Tấn Dương của Tấn, tức Thái Nguyên. Theo ghi chép thì khi còn nhỏ ông đã ham đọc Xuân Thu và có thể lược thông ý chính. Ông cũng có bề ngoài giống với cha mình nên được cha yêu mến. doãn, Phán lục quân chư vệ sự. Mẫu huynh của Lý Tùng Hậu là Lý Tùng Vinh, đang là Thiên Hùng tiết độ sứ, khi biết tin thì không vui, do điều này sẽ cho phép Lý Tùng Hậu ở lại kinh thành và kiểm soát cấm quân.
Năm Mậu Tý (928), Minh Tông định để Lý Tùng Hậu kết hôn với con gái của Xu mật sứ An Trọng Hối, song do Xu mật xứ, Đồng bình chương sự Khổng Tuần khuyên can không nên có quan hệ hôn nhân với hoàng tử nên An Trọng Hối từ chối. Sau đó Khổng Tuần lại liên hệ với ái phi của Minh Tông là Vương đức phi để cho con gái mình được nạp. Theo thỉnh cầu của Vương đức phi, Minh Tông sắp xếp để Lý Tùng Hậu kết hôn với con gái của Khổng Tuần, An Trọng Hối rất tức giận. Ngày Bính Tuất (11) tháng 4 (3 tháng 5), Lý Tùng Hậu được bổ nhiệm làm Tuyên Vũ tiết độ sứ và tiếp tục làm Phán lục quân chư vệ sự. Ngày Canh Dần 19) tháng 11 cùng năm (2 tháng 1 năm 929), Lý Tùng Hậu nạp con gái của Khổng Tuần làm phi, Khổng Tuần nhân cơ hội này muốn ở lại thành Đại Lương ở Khai Phong, song do An Trọng Hối phản đối nên phải trở về đông đô Lạc Dương. Trong khi đó, theo ghi chép thì Lý Tùng Hậu được miêu tả là cung cẩn hiếu thiện, những đức tính mà Minh Tông hy vọng Hà Đông tiết độ sứ Lý Tùng Vinh noi theo (do người này kiêu ngạo và hung bạo) song không có kết quả.
Ngày Nhâm Tý (13) tháng 4 năm Kỉ Sửu (24 tháng 5 năm 929), Lý Tự Nguyên cho Lý Tùng Hậu làm Hà Đông tiết độ sứ và Bắc Đô lưu thủ, trong khi cho Lý Tùng Vinh làm Hà Nam doãn và Phán lục quân chư vệ sự. (Lúc này, triều đình đã chuyển về Lạc Dương.)
Sang năm sau, Lý Tùng Hậu thêm chức Kiểm hiệu thái úy, kiêm Thị trung, dời đến thành Nghiệp Đô ở Thiên Hùng.
Cuối năm 933, Lý Tự Nguyên lâm trọng bệnh, Lý Tùng Vinh sợ rằng các triều thần sẽ gây trở ngại cho việc kế vị nên cố gắng dùng vũ lực đoạt lấy quyền kiểm soát triều đình, song thất bại dưới tay của các Xu mật sứ Chu Hoằng Chiêu, Phùng Vân và bị giết. Lý Tự Nguyên sau đó quyết định triệu Lý Tùng Hậu từ Thiên Hùng về, song trước khi Lý Tùng Hậu có thể đến Lạc Dương, Lý Tự Nguyên mất vào ngày Mậu Tuất (26) tháng 11 cùng năm (15 tháng 12 năm 933). Lý Tùng Hậu đến Lạc Dương vào ngày Tân Sửu (29) cùng tháng (18 tháng 12). Ngày Quý Mão (1) tháng 12 (20 tháng 12), phát tang Minh Tông, Lý Tùng Hậu đăng cơ. tiết độ sứ, và anh rể của Lý Tùng Hậu là Thạch Kính Đường, đang giữ chức Hà Đông tiết độ sứ. Họ bãi chức Khống hạc đô chỉ huy sứ của Lý Trọng Cát (李重吉), con trưởng của Lý Tòng Kha, trong khi lại triệu con gái của Lý Tùng Kha là Lý Huệ Minh (李惠明) vào cung, trong khi bà đang là ni cô tại Lạc Dương, khiến Lý Tùng Kha trở nên sợ hãi., và chuyển Thành Đức tiết độ sứ Phạm Diên Quang đến Thiên Hùng. Họ làm vậy mà không cần Lý Tùng Hậu giáng chế thư, mà chỉ cứ sứ thần đem lệnh từ Xu mật viện đến trấn., thủ phủ của Thiên Hùng. thì gặp Thạch Kính Đường, người đang tiến từ Hà Đông về phía nam, ban đầu có ý hỗ trợ Lý Tùng Hậu. Thạch Kính Đường tham vấn Vệ châu thứ sử Vương Hoằng Chí (王弘贄), người này cho rằng sự nghiệp của Lý Tùng Hậu không còn hy vọng. Khi binh sĩ của Lý Tùng Hậu là Cung tiễn khố sứ Sa Thủ Vinh và Bôn Hồng Tiến nghe được, họ trách mắng Thạch Kính Đường xảo trá, Sa Thủ Vinh cố gắng ám sát Thạch Kính Đường song thất bại, Bôn Hồng Tiến tự sát. Nha nội chỉ huy sứ Lưu Tri Viễn của Thạch Kính Đường dẫn binh tận sát hầu cận và binh sĩ của Lý Tùng Hậu, chỉ tha cho Lý Tùng Hậu, Thạch Kính Đường và tùy tùng tiếp tục đến Lạc Dương (để quy thuận Lý Tùng Kha).
Ngày Quý Dậu (4) tháng 4 (19 tháng 5), Tào thái hậu hạ lệnh phế Lý Tùng Hậu và giáng ông làm Ngạc vương, sau đó lệnh Lý Tùng Kha tức hoàng đế vị. Lý Tùng Kha sau đó tức vị tại Lạc Dương. Trong khi đó, Vương Hoằng Chí chuyển Lý Tùng Hậu đến một dinh doanh của châu. Lý Tòng Kha sau đó cho con của Vương Hoằng Chí là Vương Loan (王巒) đem rượu độc đến Vệ châu giết Lý Tùng Hậu. Ngày Mậu Dần (9) tháng 4 (24 tháng 5), Vương Loan đến Vệ châu, yết kiến Lý Tùng Hậu song Lý Tùng Hậu không đáp lại. Vương Hoằng Chí nhiều lần dâng rượu, song Lý Tùng Hậu biết rằng trong đó có độc nên không uống, Vương Loan bèn siết cổ giết ông. Khổng hoàng hậu và bốn hoàng tử của Lý Tùng Hậu cũng bị giết. Ngày Ất Dậu tháng 12 (26 tháng 1 năm 935), Lý Tùng Hậu được án táng với tước Dĩnh vương ở phía nam Huy Lăng (lăng mộ của Minh Tông). Sau khi Thạch Kính Đường lật đổ Lý Tùng Kha và xưng đế, Thạch Kính Đường truy thụy hiệu cho Lý Tòng Hậu là "Mẫn".
