✨Hiểu Phong Học Nột
Hiểu Phong Học Nột (ko. 학눌, Hyobong Hangnu, 7 tháng 7 năm 1888 - 15 tháng 10 năm 1966) là Thiền sư Hàn Quốc cận đại nổi tiếng thuộc Thiền phái Tào Khê. Sư là một trong những đệ tử xuất sắc nhất của Thiền sư Mãn Không (ko. Mangong) và có nhiều đệ tử tài ba như Thiền sư Cửu Sơn (ko. Kusan sunim, người có công truyền bá Thiền Tào Khê sang phương Tây) và Thiền sư Pháp Đỉnh (ko. Bopjong, tác giả của nhiều tập sách về Thiền học).
Sư được biết đến là người đầu tiên làm chức thẩm phán ở Hàn Quốc và cũng là tông trưởng đầu tiên của Thiền phái Tào Khê. Học giả Stephen Batchelor ca ngợi sư là một trong những vị đại sư đáng chú ý nhất trong thế kỷ 20 ở Hàn Quốc.
Cơ duyên & hành trạng
Tiểu sử
Sư tên khai sinh là Lee Chan-Hyeong, sinh ngày 7 tháng 7 năm 1888 tại Yangdeok-gun, tỉnh Pyeongannam-do. Lớn lên, sư theo đuổi học hành và tốt nghiệp ngành Luật tại Đại học Waseda danh tiếng của Nhật Bản. Sau khi trở về Hàn Quốc, sư nhậm chức thẩm phán ở tuổi 25 và trở thành người Hàn Quốc đầu tiên làm chức vụ này, nhiệm kỳ là 10 năm (1913-1923).
Vào năm nhiệm kỳ thứ 10 (1923), cuộc đời sư đối mặt với những bước ngoặt lớn. Dưới chế độ thực dân Nhật Bản (1910-1945), có nhiều người Hàn Quốc bị bắt giữ hay bỏ tù vì chống đối lại sự cai trị tàn bạo của thực dân Nhật Bản để giành độc lập. Chính quyền thực dân sau đó đã đưa các tù nhân chính trị này cho các thẩm phán Hàn Quốc xét xử để trốn tránh sự chỉ trích. Tại thời điểm đó, sư là vị thẩm phán có quốc tịch Hàn Quốc duy nhất nên phải lãnh trách nhiệm xét xử những người tù nhân này. Để hoàn thành nhiệm vụ do chính quyền thực dân đặt ra, sư buộc phải tuyên án tử hình cho những ai kiên quyết chống đối chính quyền thực dân. Và sư đã rất đau khổ khi phải chứng kiến nhiều đồng bào của mình bị tử hình. Vì không thể chịu đựng thêm được tình trạng này, sư quyết định từ bỏ gia đình và công việc để xuất gia.''
Sau khi đại ngộ, sư được Thiền sư Mãn Không ấn khả và trở thành pháp tử của Mãn Không. Ngoài ra, sư cũng đến nhiều ngôi Thiền đường khác nhau để trình sở ngộ và nhận được ấn khả từ nhiều vị Thiền sư đương thời.
Hoằng pháp
Năm 1937, sư bắt đầu trụ trì tại tổ đình Quảng Tùng tự (ko. Songgwangsa) của Tào Khê tông và cảm thấy nơi đây rất thân quen. Trong một giấc mơ kỳ lạ nọ, sư gặp được Thiền sư Gyobong - người thừa kế thứ 16 của Thiền sư Trí Nột, Gyobong dặn sư hãy mang ánh sáng rực rỡ đến cho Quảng Tùng tự, rồi trao cho sư một tập thơ Thiền và ban pháp danh là Hiểu Phong (ko. Hyobong). Từ đó sư dùng pháp danh trên và cũng tự đặt cho mình một pháp danh khác là Học Nột (ko. Hangnul) để bày tỏ sự kính trọng đối với Quốc sư Trí Nột vì những điều sư đã học hỏi được từ ông. Trong 10 năm trụ trì tại Quảng Tùng tự, sư đã xây dựng nhiều Phật học viện để đào tạo Kinh điển, Thiền học cho các đệ tử. Sư truyền bá Thiền công án rất hưng thịnh.
Năm 1946, sư được đề cử đảm nhiệm chức viện trưởng tại Viện Phật Học Gaya mới khánh thành tại Tổ đình Hải Ấn tự (ko. Haeinsa).
Năm 1954, sư tham gia phong trào Thanh Tịnh Hóa Phật Giáo cùng nhiều vị Thiền sư khác trong tông môn để chấn chỉnh sự tha hoá giới luật của nhiều tăng sĩ Hàn Quốc đương thời do kết quả từ chính sách tân tăng, ép nhà sư lấy vợ của chính quyền Nhật Bản.
Năm 1962 (74 tuổi), sư được bầu làm Tông trưởng (lãnh đạo tinh thần tối cao) đầu tiên của Thiền phái Tào Khê. Sư đã có nhiều nỗ lực và đóng góp để phục hưng, phát triển tông phái này.
Thị tịch
Năm 1966, vì sức khỏe suy yếu nên sư chuyển đến sống tại một ngôi thất ở Biểu Trung tự (ko. Pyochungsa), Miryang.
Đến ngày 15 tháng 10 cùng năm, sau buổi tụng kinh sáng, sư ngồi kiết già và thông báo cho các môn đệ biết rằng ngày hôm sau mình sẽ ra đi. Đến hôm sau, trước sự vây quanh của môn đệ và các bằng hữu, đồng đạo, sư an nhiên tọa Thiền thị tịch. Đệ tử làm lễ trà tỳ và thu được hơn 32 viên xá lợi. Bài kệ thị tịch của sư là:
:Tất cả pháp đã nói
:Vốn đều là thừa thãi
:Ngày nay như thế nào?
:Mặt trăng chiếu ngàn sông.
Nguồn tham khảo
Thể loại:Thiền sư Triều Tiên Thể loại:Tào Khê tông
