✨Hoằng Trí Chính Giác
Hoằng Trí Chính Giác (zh. 宏智正覺, ja. Wanshi Shōgaku, 1091-1157) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc đời pháp thứ 10 của Tào Động tông. Người đời sau còn nhớ đến sư qua những cuộc tranh luận (trên tinh thần bạn bè) với Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo về phương pháp tu hành của tông Lâm Tế (Thiền Công Án) và tông Tào Động (Thiền Mặc Chiếu).
Sư là người đã đề xướng phương pháp "Mặc Chiếu Thiền". Sau này, phương pháp này cùng với phương pháp "Tham công án, thoại đầu" trở thành hai phương thức tu tập phổ biến để đạt được giác ngộ trong Thiền tông. Vào thế kỷ 13, Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền đã hấp thụ tinh hoa của Thiền Mặc Chiếu và sau đó truyền bá mạnh mẽ tại Nhật Bản. Trong các tác phẩm Thiền của Đạo Nguyên như Chính Pháp Nhãn Tạng (Shōbō Genzō), Hoằng Trí là nhân vật điển hình được Đạo Nguyên trích dẫn và nhắc đến nhiều nhất.
Sư là tổ sáng lập ra phái Hoằng Trí - một trong các nhánh chính của Tông Tào Động dưới thời Tống, Nguyên. Dòng pháp này được truyền qua pháp tử của sư là Thiền sư Tự Đắc Huệ Huy khoảng 10 đời thì thất truyền.
Cơ duyên ngộ đạo
Sư họ Lý, quê ở Thấp Châu, Sơn Tây. Tương truyền, mẹ sư mộng thấy một vị tăng ở Ngũ Đài cởi chiếc vòng và mang vào cánh tay bà. Sau đó, bà mang thai và sinh ra sư.
Năm 11 tuổi, sư xuất gia với pháp sư Bản Tông ở Tịnh Minh tự. Đến năm 14 tuổi, sư thọ giới cụ túc với luật sư Trí Quỳnh tại Từ Vân tự ở vùng Tấn Châu, Lâm Phần, Sơn Tây. Năm 18 tuổi, sư đi du phương học đạo và tham vấn các bậc tôn túc khắp nơi. Sư từng phát nguyện với ông nội rằng: "Nếu con không phát minh việc lớn, thề không trở về!"
Phong cách của sư rất bình dị, chất phác và gần gũi với mọi người. Bình thường, khi được người cúng dường sư không vui mừng, đến lúc cho đi sư không chán ngán, mỗi ngày sư chỉ ăn một bữa và không ăn quá ngọ.
Ngày mồng 8 tháng mười năm Đinh Sửu (1157), niên hiệu Thiệu Hưng thứ 27, sư đắp y ngồi ngay thẳng nói chuyện với đại chúng rồi an nhiên thị tịch, trụ thế 67 năm, hạ lap 56 năm. Vua Tống Cao Tông ban tặng cho sư thụy hiệu là Hoằng Trí Thiền Sư. Nhục thân của sư lưu lại bảy ngày mà gương mặt vẫn tươi như còn sống. Tháp mộ được an trí ở Đông Cốc, đến nay vẫn còn ở núi Thiên Đồng. Trước khi tịch, sư viết kệ cho Thiền sư Đại Huệ việc thỉnh người thừa kế núi Thiên Đồng:
:Mộng huyễn không hoa,
:Sáu mươi bảy năm,
:Chim trắng khói lặn,
:Nước thu tiếp trời.__
Đệ tử nối pháp của sư có 14 vị, trong đó điển hình nhất là Thiền sư Tuyết Đậu Từ Tông và Tự Đắc Huệ Huy.
Pháp ngữ
Sư thượng đường nói: "Gác vàng rèm sổ ai truyền tin nhà, màn đỏ phủ tối ném chân châu, chính khi ấy thấy nghe có chỗ chẳng đến, nói năng có chỗ chẳng kịp, làm sao thông được tin tức? Mộng về đêm tối mờ mờ sáng, cười chỉ gia phong rực rỡ xuân."
Sư thượng đường nói: "Tâm không thể duyên miệng không thể luận, dù cho lui bước gánh vác, tối kỵ đương đầu chạm húy. Gió mát trăng trong bến đò xưa, thuyền đêm chèo chuyển lưu ly dấy."
Sư thượng đường nói: "Không kiếp có chân tông, trước tiếng hỏi chính mình, đỏ cùng kế sống mới, trong trắng gia phong xưa, quả thật ngoài tam thừa, lặng lẽ trong một ấn, trở lại đi dị loại, muôn dòng tự về đông."
Tác phẩm
Sư có để lại rất nhiều tác phẩm Thiền học, còn được lưu truyền đến ngày nay:
Hoằng Trí Giác Hòa Thượng Ngữ Yếu (zh. 宏智覺和尚語要, 1 quyển). Hoằng Trí Giác Thiền Sư Ngữ Lục (zh. 宏智覺禪師語錄, 4 quyển). Hoằng Trí Quảng Lục (zh. 宏智廣錄, 9 quyển). Thiên Đồng Bách Tắc Tụng Cổ (zh. 天童百則頌古).
Nguồn tham khảo
Thể loại:Thiền sư Trung Quốc Thể loại:Nhà văn Trung Quốc thời Tống Thể loại:Người Sơn Tây (Trung Quốc) Thể loại:Tào Động tông Thể loại:Sinh năm 1091 Thể loại:Mất năm 1157 Thể loại:Im lặng
