✨Keo hoa vàng
Keo hoa vàng (Danh pháp khoa học: Acacia pycnantha) là một loài thực vật thuộc họ Đậu, phân họ Trinh nữ, chi Keo. Cây cao 8 m (25 ft) và có cuống lá dẹt thay vì lá thật. Cuống lá hình lưỡi liềm, dài từ 9 đến 15 cm (3,5–9 in), và rộng 1 đến 3,5 cm (0,5–1,5 in). Hoa vàng, thơm, phát triển nhiều vào cuối đông và mùa xuân. Câu thụ phấn chéo nhờ một số loài chim thuộc họ Ăn mật và chi Acanthiza. Những loài chim này hút mật, rồi cọ phải những bông hoa khác, mang phấn hoa đi theo. Loài này phân bố ở đông nam nước Úc từ bán đảo Eyre phía Nam của Nam Úc vào phía tây tiểu bang Victoria và phía Bắc vào nội địa khu vực phía nam New South Wales và Lãnh thổ Thủ đô Úc. Cây được tìm thấy trong các tầng dưới của rừng bạch đàn mở trên đất khô, nông. cây được trồng ở khu vực trong tất cả các tiểu bang phía nam của Úc cũng như Nam Phi và California.
Năm 1842, Thomas Mitchell phát hiện ra loài khi thu thập các loại mẫu vật, còn George Bentham đã mô tả loài. Vỏ cây Acacia pycnantha tạo ra chất tannin nhiều hơn bất cứ loài cây keo khác, dẫn đến việc khai thác thương mại sản xuất hợp chất này. Nó đã được trồng rộng rãi làm cây cảnh và sản xuất hoa, nhưng nó lại là cây dại ở Nam Phi, Tanzania, Ý, Bồ Đào Nha, Sardinia, Ấn Độ, Indonesia, New Zealand, cũng như Miền đông nước Úc, Tasmania và New South Wales. Acacia pycnantha đã được bầu chọn là quốc hoa chính thức của Úc vào năm 1988, và đã là biểu tượng in trên tem bưu chính của Úc.
Mô tả
phải|thumb|216x216px|Hạt giống cây_ Acacia pycnantha to 2 mm._ Loài Acacia pycnantha thường mọc thành cây nhỏ, cao từ 3 đến 8 m (10–25 ft), mặc dù theo báo cáo ở Morocco, loài cây có thể cao lên đến 12 m (40 ft). Vỏ cây thường có màu nâu đậm hoặc xám mịn lúc còn bé và nhăn lại và sần sùi khi đã già. Cành không có hoa hoặc phủ hoa trắng. Các cây trưởng thành không có lá thật nhưng có cuống lá dẹt từ từ các cành, có màu xanh lá cây sáng hoặc tối. Cuống lá hình lưỡi liềm, dài từ 9 đến 15 cm (3,5–9 in), và rộng từ 1 đến 3,5 cm (0,5–1,5 in). Khi trưởng thành cuống mới sạm màu đồng thiếc. Quan sát thực địa tại công viên bảo tồn Hale cho thấy phần lớn cây trưởng thành vào mùa xuân và mùa hè (ở Úc) từ tháng 10 đến tháng 1.
Chồi hoa ở quanh năm trên những cây trưởng thành mới, nhưng chỉ bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 5. Hoa nở từ tháng 7 đến tháng 9 (từ cuối mùa đông đến đầu mùa hè) đó là vì các chồi sau này phát triển nhanh hơn đỉnh điểm là tháng 7 và tháng 8. Những chùm hoa vàng tươi mọc thành nhóm từ 40 đến 80 bông, chùm dài 2,5–9 cm (1–3,5 in) phát sinh từ kẽ chồi. Mỗi bông hoa cấu trúc giống như quả bóng, được bao phủ bởi 40 đến 100 bông hoa nhỏ hơn có năm cánh và nhị hoa dài, khiến đầu hoa có lông mỏng. Lúc cây bé, vỏ túi hạt màu xanh lá cây, khi trưởng thành có màu nâu sẫm và hơi khít lại giữa các hạt, tạo thành một chuỗi. Nhà thám hiểm Thomas Mitchell thu thập các loại mẫu vật ở phía bắc bang Victoria giữa thị trấn Pyramid Hill và sông Loddon. Nhà thực vật học Queensland Les Pedley phân loại lại loài như Racosperma pycnanthum vào năm 2003, khi ông đề xuất đặt gần hết các chi cây ở Úc vào chi mới có tên là Racosperma. Tuy nhiên, tên này được coi là đồng nghĩa với tên gốc. Tuy nhiên, không có phân loài được công nhận hiện nay.
Năm 1921, Joseph Maiden mô tả Acacia westonii mọc từ sườn phía bắc và phía tây núi Jerrabomberra gần Queanbeyan ở New South Wales. Ông thấy nó giống tương tự, nhưng thực chất là khác A. pycnantha, do đó ông không phân ra loài khác. Đồng nghiệp của ông là Richard Hind Cambage đã trồng và nghiên cứu cây giống và phát hiện ra cây có thân dài hơn nhiều so với A. pycnantha, và cuống lá xuất hiện ba nhị chứ không phải là một như các loài khác. Nó được xem là đồng nghĩa của A. pycnantha.
Phép lai của loài được biết đến trong tự nhiên và trồng trọt. Trong khu rừng Whipstick gần Bendigo ở Victoria, lai giả định với cây keo Whirrakee (Acacia williamsonii) đã xác định; tương tự với cây keo hakea (Acacia hakeoides). Phép lai với cây keo bạc Queensland (Keo lá tròn) mọc lên ở châu Âu đã được đặt tên là Acacia x siebertiana và Acacia x deneufvillei. Ở Nam Phi, nó đã được trồng từ năm 1858 và 1865 để ổn định cồn cát và sản xuất chất tannin, nhưng đã lan ra theo đường nước vào rừng, núi và đồng bằng fynbos, và các khu vực biên giới giữa fynbos và karoo. Các túi mật của hoa đã hình thành loài ong bắp cày _Trichilogaster signiventris' _đã được tìm thấy ở Nam Phi, đã giúp cân bằng hệ sinh thái và giảm khả năng sinh sản của cây trong suốt phạm vi của chúng. Ong trưởng thành đẻ trứng vào đầu nụ hoa trong mùa hè, nở tháng năm và tháng sáu. Ấu trùng gây ra sự hình thành của các mụn cây và ngăn chặn sự phát triển hoa. Cành cây có thể bị gãy dưới sức nặng của các mụn cây. Ngoài ra, loài mọt hạt keo _Melanterius compactus _xuất hiện năm 2001 cũng góp phần cân bằng hệ sinh thái.
Hệ sinh thái
thumb|254x254px|Một con ruồi đang đậu trên cuống láthumb|phải|Cây con|253x253px Mặc dù các loài cây thường bị chết do cháy, nhưng loài cây này trưởng thành có thể phát triển thành bụi chống cháy. Hạt giống có thể tồn tại trong đất trong hơn 5 năm, nảy mầm kể cả khi bị cháy. Đây là nơi vi khuẩn rhizobia hình thành nốt sần rễ, nơi làm cho nitơ ở dạng hữu cơ và do đó giúp cây mọc trên đất bạc màu. Một cuộc nghiên cứu thực địa trên khắp nước Úc và Nam Phi nhận thấy rằng các vi sinh vật rất đa dạng về mặt di truyền, thuộc chủng khác nhau của các loài Bradyrhizobium japonicum và chi Burkholderia ở cả hai nước. Hiện chưa rõ liệu cây keo hoa vàng đã được kèm theo các vi khuẩn này sang lục địa châu Phi hay gặp quần thể mới có.
Tự không tương thích, Acacia pycnantha không thể tự thụ tinh và yêu cầu các cây phải thụ phấn chéo nhau để tạo hạt. Điều này tạo thuận lợi cho các loài chim. Đã có các thí nghiệm ngăn chim khỏi hoa cho được kết quả là làm giảm đáng kể số lượng hạt giống. Tuyến mật nằm trên cuống lá, chúng càng ở gần hoa nở thì càng hoạt động. Chúng tạo mật hoa cho chim hút ngay trước hoặc trong quá trình ra hoa. Trong khi hút, chim cọ phải đầu hoa khiến phấn hoa dính trên thân và rơi vào nhiều cây. Phylidonyris novaehollandiae, và đôi khi cả Lichenostomus penicillatus, Phylidonyris pyrrhopterus, và Acanthorhynchus tenuirostris
Gỗ dùng làm lương thực cho ấu trùng của bọ cánh cứng nhiều màu như Agrilus assimilis, Agrilus australasiae và Agrilus hypoleucus. Ấu trùng của một số loài bướm ăn lá bao gồm các loài như Hypochrysops ignita, Jalmenus icilius, Jalmenus lithochroa và Theclinesthes miskini. Ong bắp cày thuộc chi Trichilogaster có dạng u sưng ở đầu hoa, phá vỡ hạt cây và loài Acizzia acaciaepycnanthae, một loài rầy hút nhựa từ lá. Acacia pycnantha bị các loài nấm gỉ trong chi Uromycladium romycladiumi ảnh hưởng đến cuống lá và cành. Các loài nấm bao gồm Uromycladium simplex hình thành mụn mủ và Uromycladium tepperianum gây u sưng nâu và đen để rồi dẫn đến cái chết của cây chủ. Hai loài nấm nữa đã được phân lập từ bệnh đốm lá trên _Acacia pycnantha _là Seimatosporium arbuti và Monochaetia lutea.
Công dụng
thumb|Nhựa cây|195x195pxKeo hoa vàng đã được trồng ở các vùng ôn đới trên thế giới để lấy chất tannin trong vỏ cây, vì nó cung cấp năng suất cao nhất trong tất cả các cây keo. Những bông hoa thơm đã được sử dụng để làm nước hoa, Giống như nhiều loài khác của cây keo, Acacia pycnantha chảy nhựa cao su khi ấn mạnh vào thân cây.
Gieo trồng
thumb|Cành đầy hoa Cây keo hoa vàng trồng ở Úc và xuất hiện ở Bắc bán cầu vào giữa những năm đầu của thế 19. Dù vòng đời loài tương đối ngắn, từ 15 đến 30 năm, nó vẫn được trồng rộng rãi vì mùi hoa thơm, màu hoa vàng rực rỡ. cũng như độ mặn của đất nhẹ. Nó có thể bị úa lá trong đất đá vôi có tính kiềm. Trước khi trồng, cần nhúng hạt giống vào nước nóng để làm mềm lớp cứng phủ bên ngoài hạt. Vợ của Thủ tướng Úc tên là Hazel Hawke đã đánh dấu buổi lễ quốc gia bằng việc trồng cây keo hoa vàng tại Vườn Quốc gia Australia. Năm 1992, chính thức tuyên bố ngày 1 tháng 9 là "Ngày loài keo quốc gia".
