✨Kháng thể đơn dòng
phải|nhỏ|336x336px| Một phương pháp sản xuất kháng thể đơn dòng Kháng thể đơn dòng (viết tắt là mAb, theo từ tiếng Anh: _monoclonal antibody_) là phân tử được sản xuất trong ống nghiệm, có tác dụng như các kháng thể thay thế có thể khôi phục, tăng cường hoặc bắt chước cuộc tấn công của hệ thống miễn dịch đối với các tế bào ung thư hay các loại virus gây bệnh truyền nhiễm.
Kháng thể đơn dòng có ái lực đơn trị, chỉ liên kết với cùng một epitope (phần của kháng nguyên mà kháng thể phát hiện được). Ngược lại, kháng thể đa dòng liên kết với nhiều epitope và thường được tạo ra bởi một số dòng tương bào tiết ra kháng thể khác nhau. Kháng thể đơn dòng đặc hiệu kép là tăng số lượng từ một epitope của kháng thể đơn dòng thành hai epitope.
Kháng thể đơn dòng có khả năng tạo liên kết đặc hiệu với hầu như bất kỳ các chất nào, do đó ứng dụng của kháng thể đơn dòng là phát hiện chất hoặc tinh chế chất đó. Ứng dụng này giúp kháng thể đơn dòng đứng một vị trí quan trọng các công trình nghiên cứu hóa sinh, sinh học phân tử và y học. Kháng thể đơn dòng được sử dụng trong lâm sàng để chẩn đoán và điều trị một số bệnh. Năm 2020, một số quốc gia đã cho phép sử dụng kháng thể đơn dòng để điều trị triệu chứng gây ra do COVID-19.
Lịch sử
Vào đầu những năm 1900, nhà miễn dịch học người Đức Paul Ehrlich đã đề xuất ý tưởng về khái niệm Zauberkugel - "viên đạn ma thuật", được coi là một hợp chất nhắm đích có chọn lọc, chính là chất tác động trực tiếp lên sinh vật gây bệnh và có thể đầu độc sinh vật đó. Ý tưởng trên củng cố khái niệm về kháng thể đơn dòng và thuốc đơn dòng. Ehrlich và Ilya Ilyich Mechnikov được trao giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 1908 vì đã cung cấp cơ sở lý thuyết cho miễn dịch học.
Đến thập niên 1970, lympho bào được phát hiện tạo ra một kháng thể duy nhất trong bệnh cảnh đa u tủy xương (một loại ung thư ảnh hưởng đến tế bào B). Các kháng thể bất thường này được sử dụng để nghiên cứu cấu trúc của các kháng thể, nhưng vẫn chưa thể tạo ra các kháng thể giống hệt nhau đặc hiệu cho một kháng nguyên nhất định. Năm 1973, Jerrold Schwaber mô tả quá trình sản xuất kháng thể đơn dòng sử dụng tế bào lai giữa người và chuột. Năm 1975, Georges Köhler và César Milstein thành công trong việc dung hợp dòng tế bào u tủy với tế bào B để tạo ra tế bào lai có khả năng tạo ra các kháng thể, các kháng thể này đặc hiệu với kháng nguyên và tồn tại vĩnh viễn. Nhờ có khám phá này, Georges Köhler, César Milstein và Niels Kaj Jerne cùng được trao giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y học năm 1984. tiến hành loại bỏ các đáp ứng mà nhiều kháng thể đơn dòng gây ra ở một số bệnh nhân. Vào những năm 1990, nghiên cứu đã đạt đến giai đoạn sử dụng kháng thể đơn dòng trong điều trị. Năm 2018, James P. Allison và Tasuku Honjo được trao giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y học vì đã khám phá ra liệu pháp điều trị ung thư bằng cách ức chế điều hòa miễn dịch ngược âm tính.
Sản xuất
phải|nhỏ| Các nhà khoa học đang quan sát lam kính chứa tế bào được nuôi cấy để phục vụ sản xuất kháng thể đơn dòng|200x200px phải|nhỏ| Kháng thể đơn dòng có thể được nuôi cấy với số lượng không hạn chế trong bình.|200x200px phải|nhỏ| Đổ đầy mẫu thử vào giếng để thử nghiệm nghiên cứu.|200x200px phải|nhỏ| Rửa lam kính đã chuẩn bị sẵn trong dung dịch|200x200px
Công nghệ phát triển mAb mới
Một số công nghệ kháng thể đơn dòng mới như phương pháp phage display, khuếch đại tế bào đơn lẻ từ các quần thể tế bào B khác nhau.
Tái tổ hợp
Sản xuất các kháng thể đơn dòng tái tổ hợp cần công nghệ nhân bản vô tính, CRISPR/Cas9 hoặc công nghệ phage display hay yeast display. Kỹ thuật kháng thể tái tổ hợp liên quan đến việc sản xuất kháng thể bằng cách sử dụng đối tượng là virus hoặc nấm men, không phải chuột. Những kỹ thuật này dựa vào việc sao chép nhanh các đoạn gen globulin miễn dịch (Ig) để tạo ra loạt kháng thể có trình tự amino acid hơi khác nhau, từ đó có thể chọn các kháng thể có tính đặc hiệu mong muốn. Những kỹ thuật này có thể được sử dụng để nâng cao tính đặc hiệu của kháng thể khi nhận dạng kháng nguyên, tính ổn định trong các điều kiện môi trường khác nhau, hiệu quả điều trị và khả năng phát hiện của háng thể trong các ứng dụng chẩn đoán.
Kháng thể khảm
Mặc dù các kháng thể của chuột và người có cấu trúc tương tự nhau, nhưng sự khác biệt về loài đủ để tạo ra đáp ứng miễn dịch khi tiêm các kháng thể đơn dòng của chuột vào người. Hậu quả, các kháng thể của chuột dễ dàng và nhanh chóng bị loại bỏ khỏi máu, cũng như các tác động đáp ứng viêm hệ thống gây viêm toàn thân và sản xuất kháng thể người chống lại kháng thể chuột (Human anti-mouse antibody, HAMA).
DNA tái tổ hợp được khám phá từ cuối những năm 1980 giúp kéo dài tăng thời gian tồn tại của kháng thể. DNA của chuột mã hóa phần liên kết của kháng thể đơn dòng được hợp nhất với DNA tạo kháng thể của người trong tế bào sống. Sự biểu hiện của DNA "khảm" hay còn gọi là DNA "nhân bản hóa" này thông qua quá trình nuôi cấy tế bào tạo ra các kháng thể nửa chuột, nửa người.
Kháng thể người
nhỏ|Một số phương pháp phân lập các kháng thể đơn dòng của người. phương pháp [[phage display
Ứng dụng
Xét nghiệm chẩn đoán
Hóa phân tích
Điều trị
Liệu pháp kháng thể đơn dòng có nhiều cơ chế, chẳng hạn như chẹn các phân tử chức năng gây ra quá trình chết tế bào theo chương trình hoặc điều chỉnh con đường truyền tín hiệu.
Điều trị ung thư
khung| Kháng thể đơn dòng điều trị bệnh ung thư. ADEPT, Liệu pháp sử dụng tiền chất thuốc thông qua enzyme phụ thuộc vào kháng thể; ADCC: [[gây độc tế bào qua trung gian kháng thể; CDC: gây độc tế bào phụ thuộc bổ thể ; MAb: kháng thể đơn dòng; scFv, đoạn Fv chuỗi đơn.]] Một số mAb được FDA chấp thuận để điều trị bệnh ung thư gồm:
- Alemtuzumab
- Bevacizumab
- Cetuximab
- Dostarlimab
- Gemtuzumab ozogamicin
- Ipilimumab
- Nivolumab
- Ofatumumab
- Panitumumab
- Pembrolizumab
- Ranibizumab
- Rituximab
- Trastuzumab
Bệnh tự miễn
Các kháng thể đơn dòng được sử dụng để điều trị các bệnh tự miễn bao gồm infliximab và adalimumab, có hiệu quả trong điều trị viêm khớp dạng thấp, bệnh Crohn, viêm loét đại tràng và viêm cột sống dính khớp nhờ khả năng liên kết và ức chế TNF-α. Basiliximab và daclizumab ức chế IL-2 trên các tế bào T hoạt hóa và do đó giúp ngăn ngừa thải ghép thận cấp tính. Tháng 9 năm 2021, chính quyền Biden đã bơm để sản xuất kháng thể đơn dòng Regeneron (2.100 đô la mỗi liều) để hạn chế sự thiếu hụt kháng thể đơn dòng.
Từ tháng 12 năm 2021, các thử nghiệm in vitro (trong ống nghiệm) cho thấy các liệu pháp kháng thể đơn dòng (ngoại trừ sotrovimab và tixagevimab/cilgavimab) không có khả năng hoạt động chống lại biến thể omicron SARS-CoV-2.
Trong giai đoạn 2021–22, tổng quan hệ thống của tổ chứcCochrane kết luận: KHÔNG đủ bằng chứng về việc sử dụng kháng thể đơn dòng trung hòa trong điều trị nhiễm COVID-19. Tổng quan hệ thống chỉ áp dụng cho những người chưa được tiêm vắc-xin COVID‐19 và chỉ áp dụng cho các biến thể COVID-19 tồn tại trong quá trình nghiên cứu, không áp dụng cho các biến thể mới hơn, chẳng hạn như biến thể Omicron. Những tác dụng phụ này có thể được phân loại thành tác dụng phụ phổ biến và nghiêm trọng.
Một số tác dụng phụ phổ biến bao gồm:
- Chóng mặt
- Nhức đầu
- Dị ứng
- Tiêu chảy
- Ho
- Sốt
- Ngứa
- Đau lưng
- Mệt mỏi
- Chán ăn
- Mất ngủ
- Táo bón
Tác dụng phụ nghiêm trọng:
- Sốc phản vệ
- Xuất huyết
- Huyết khối động-tĩnh mạch
- Viêm tuyến giáp tự miễn
- Suy giáp
- Viêm gan
- Suy tim
- Ung thư
- Thiếu máu
- Giảm bạch cầu
- Nhiệt miệng
- Viêm ruột
- Thủng ruột
- Viêm niêm mạc
