✨Khoa học thần kinh và xu hướng tính dục
Xu hướng tính dục là một sự hấp dẫn lâu dài về tình cảm hoặc tình dục (hoặc cả hai) đối với những người cùng giới hoặc giới tính khác, hoặc với cả hai giới tính hoặc nhiều hơn một giới, hoặc không một giới hay giới tính nào đã kể trên. Nguyên nhân chính yếu và cơ chế của sự phát triển của xu hướng tính dục ở con người vẫn chưa được sáng tỏ, trong khi đó nhiều giả thuyết được đặt ra là dựa trên suy đoán và hiện còn gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, những phát triển trong khoa học thần kinh đã giải thích và minh họa các đặc điểm liên quan đến xu hướng tính dục. Nhiều nghiên cứu đã khám phá ra những tương quan về cấu trúc, mối quan hệ về chức năng và/hoặc nhận thức, và đặt ra những giả thuyết về sự phát triển liên quan đến xu hướng tính dục con người.
Sinh học thần kinh về sự phát triển
Nhiều giả thuyết về sự phát triển của xu hướng tính dục đề cập tới sự phát triển thần kinh ở thai nhi, với những mô hình đã được đề xuất minh họa cho sự tiếp xúc với nội tiết tố tiền sinh sản, hệ miễn dịch của người mẹ, và sự bất ổn định trong quá trình phát triển. Những yếu tố được đề xuất khác bao gồm sự kiểm soát di truyền của xu hướng tính dục. Hiện chưa tìm thấy bất cứ bằng chứng thuyết phục nào chứng minh có bất cứ tác động nào từ môi trường hay do học được có ảnh hưởng đến sự phát triển của xu hướng tính dục phi dị tính luyến ái.
Vào năm 2005, người ta giải thích rằng các androgen steroid ảnh hưởng đến sự dị hình giới tính trong não và trong hành vi của động vật có xương sống, như đã được chứng minh trong những mô hình động vật vài thập kỉ trước. Mô hình androgen tiền sinh sản đối với đồng tính luyến ái mô tả ảnh hưởng của sự tiếp xúc giữa những nội tiết tố này đối với sự phát triển về thần kinh của thai nhi.
Sự thay đổi trong vùng dưới đồi có thể có một số ảnh hưởng đến xu hướng tính dục. Nhiều nghiên cứu thể hiện rằng những yếu tố như số lượng tế bào và kích thước của nhiều nhân trong vùng dưới đồi có thể ảnh hưởng tới xu hướng tính dục của một người.
Nghiên cứu não bộ
Nhân lưỡng hình giới tính ở vùng trước thị (SDN-POA) thuộc vùng dưới đồi trước cho thấy sự khác nhau (giữa giống đực và cái) về cấu trúc cơ thể ở nhiều loài động vật có vú (như cừu, chuột …). Ngoài ra, còn có bằng chứng chứng minh rằng vùng trước thị, hoặc khu vực lân cận, giúp điều hòa hành vi giao phối lưỡng hình giới tính, bao gồm ở cừu và dê – loài vật không hoàn hảo nhưng lại là mô hình phù hợp cho xu hướng tính dục con người. Một điểm có khả năng tương đồng ở con người - khe chứa nhân thứ ba thuộc vùng dưới đồi trước (INAH – 3) - cũng thể hiện sự khác biệt giới tính. Trong những nghiên cứu sau đó, người ta cũng phát hiện rằng đặc điểm này của người nam dị tính và đồng tính cũng khác nhau. Người ta cũng tìm ra bằng chứng chứng minh rằng một số khu vực thuộc vùng dưới đồi trước có thể được kích thích bởi các steroid mang nội tiết tố mùi hương (pheromone); sự kích thích này có có những điểm khác nhau dựa trên giới tính và xu hướng tính dục ở nam và nữ. Do đó, các vùng não giống vùng trước thị có thể có chức năng tham gia điều khiển kích thích tình dục. Có nhiều vùng não khác có liên quan tới xu hướng tính dục con người ngoài vùng trước thị (nhân trên giao thoa thị giác), nhưng những vùng não này không thể nào trực tiếp ảnh hưởng đến những hấp dẫn cơ bản đối với nam hay nữ, bởi vì những vùng này vẫn không được liên kết với hành vi tình dục, nhưng chúng chỉ ra rằng có những khu vực khác cũng "bị thay đổi do giới tính" ở người đồng tính luyến ái so với người dị tính luyến ái.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả hay hầu hết những người con trai sẽ là đồng tính luyến ái sau nhiều lần người mẹ mang thai con trai, đúng hơn là khả năng con trai sinh ra mang xu hướng tính dục là đồng tính luyến ái tăng lên khoảng 2% sau con trai đầu lòng, 4% sau con thứ hai, 6% sau con thứ ba và tiếp tục tăng lên như vậy. Các nhà khoa học ước tính có khoảng từ 15% đến 29% những người nam có xu hướng tính dục là đồng tính luyến ái là do hiệu ứng này, nhưng con số thực sự có thể còn cao hơn, do người mẹ có thể đã từng bị sảy thai và phá thai con trai trước đó. Điều này có thể đã khiến cơ thể người mẹ sản sinh ra kháng nguyên liên kết Y. Thêm vào đó, hiệu ứng này không có ảnh hưởng đối với những người nam thuận tay trái. Bởi vì nó phụ thuộc vào tay thuận, tay thuận lại là đặc điểm được quyết định trước khi được sinh ra, nó khẳng định thêm tính sinh học chứ không phải tâm lý của hiệu ứng thứ tự sinh anh em. Hiệu ứng thứ tự sinh không được áp dụng vào quáqua trình phát triển xu hướng tính dục đồng tính luyến ái ở nữ giới. Blanchard không tin rằng cùng một phản ứng kháng thể sẽ gây ra đồng tính luyến ái ở con trai đầu lòng - thay vào đó, nó có thể là do di truyền, do nội tiết tố tiền sinh sản và nhiều phản ứng miễn dịch khác của người mẹ ảnh hưởng sự phát triển não bộ của thai nhi. Ray Blanchard xem hiệu ứng như "một trong những biến số dịch tễ học đáng tin cậy nhất từng được xác định trong nghiên cứu xu hướng tính dục," và J. Michael Bailey đã nói rằng không có giả thuyết hợp lý nào ngoài phản ứng miễn dịch của người mẹ đã từng được tìm ra.
Hướng nghiên cứu
Vào năm 2005, các hướng nghiên cứu bao gồm:
- Tìm kiếm các dấu hiệu cho thấy mức độ steroid trong não thai nhi giúp làm nổi bật sự phát triển thần kinh sớm dẫn đến một số xu hướng tính dục nhất định
- Xác định chính xác mạch thần kinh quyết định xu hướng tính dục
- Sử dụng các mô hình động vật để tìm hiểu những yếu tố di truyền và phát triển ảnh hưởng đến xu hướng tính dục
- Nghiên cứu sâu hơn về quần thể, di truyền và các dấu hiệu huyết thanh học để làm rõ và xác định ảnh hưởng của hệ miễn dịch của người mẹ
- Nghiên cứu hình ảnh thần kinh học để định lượng sự khác biệt bao quát liên quan đến xu hướng tính dục trong cấu trúc và chức năng
- Nghiên cứu về các hóa chất trong hệ thần kinh để xem xét vai trò của các steroid tình dục đối với hệ mạch thần kinh tham gia vào sự hấp dẫn về tình dục
