✨Ngọc Hồi (xã)
Ngọc Hồi là một làng, cũng là tên một xã thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Xã cách trung tâm thành phố Hà Nội 14 km về phía nam, nằm cạnh quốc lộ 1.
Địa giới hành chính
Địa giới hành chính xã Ngọc Hồi như sau: tây giáp xã Đại Áng bắc giáp các xã Vĩnh Quỳnh và Ngũ Hiệp đông giáp xã Liên Ninh nam giáp xã Liên Ninh (huyện Thanh Trì) và xã Nhị Khê (huyện Thường Tín).
Làng Ngọc Hồi
Làng Ngọc Hồi
Làng Ngọc Hồi trước Cách mạng thuộc tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Làng nằm ở cửa ngõ phía Nam thủ đô, trên đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng. Quốc lộ 1 song song với đường sắt Bắc- Nam dọc theo làng khoảng hơn một cây số. Làng Ngọc Hồi nay thuộc xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì.
Làng còn có con đường cổ, xưa gọi là "đường Quai " hay "đường cái cao" vốn là con đường Thiên Lý từ Quán Gánh về Duyên Trường, Hạ Thái lên, qua làng Yên Kiện đến đầu làng Quỳnh Đô (xã Vĩnh Quỳnh) để vào Chợ Mơ, Thăng Long. Đường thủy có sông Tô Lịch từ Hồ Tây - Ngã Tư Sở chảy qua xuôi về Thường Tín.
Xưa kia, địa dư của làng rất rộng, có rất nhiều ruộng, cuộc sống của dân làng cũng tương đối phong lưu, làm được cả đình rất to. Nhưng rồi, do tranh chấp ruộng đất với một số làng trong vùng dẫn đến khiếu kiện kéo dài, làng không thắng kiện, phải bán cả đình, cả ruộng nên số đông dân làng phải phiêu bạt đi nơi khác và làng phải đổi tên thành Yên Kiện (bia hậu năm đầu đời Tự Đức - 1848) trong chùa đã ghi tên "Yên Kiện").
Yên Kiện nằm ở cửa ngõ phía Nam Thăng Long, có con đường cổ gọi là "đường Quai " hay "đường cái cao" từ đầu cầu Ngọc Hồi hiện nay chạy qua, lên các làng Lạc Thị- ích Vịnh, nối với đường 70 từ thị xã Hà Đông- Văn Điển ở đầu làng Quỳnh Đô, rồi lại theo đường Cầu Tiên- Quán Sét ở trên, lên Chợ Mơ vào Thăng Long. Có nhà nghiên cứu cho rằng, đường cái cao này chính là con đường Thiên Lý từ Quán Gánh về Duyên Trường, Hạ Thái - Đông Phù, lên Ngọc Hồi để vào Kinh thành Thăng Long xưa.
Đầu thế kỷ XX, Yên Kiện vẫn là một làng rất nhỏ, chỉ có 275 nhân khẩu (năm 2000 chỉ có 197 hộ với 773 nhân khẩu). Tuy vậy, làng vẫn trở thành một xã thuộc tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Tháng 1-1946, làng hợp nhất với các làng Ngọc Hồi, Lưu Phái thành xã Ngọc- Yên- Lưu. Từ đầu năm 1948, làng lần lượt nằm trong các xã Việt Hưng, Đại Hưng. Sau Cải cách ruộng đất, làng nằm trong xã Việt Hưng cùng với các làng Ngọc Hồi, Lạc Thị, Lưu Phái, thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (năm 1961 thuộc huyện Thường Tín và làng Lưu Phái cắt về xã Ngũ Hiệp). Năm 1968, xã Việt Hưng đổi tên thành xã Ngọc Hồi. Đầu năm 1979, xã Ngọc Hồi được cắt về huyện Thanh Trì của Hà Nội.
Yên Kiện xưa rất nhiều ruộng, mỗi đinh nam từ 18 tuổi trở lên được chia 5 sào ruộng công. Nhưng ruộng ở đây đa phần là ruộng trũng, xấu, nên thu nhập từ nông nghiệp thấp và không ổn định. Để bảo đảm đời sống, nhân dân các làng làm thêm các nghề phụ, trong đó có nghề diu tôm.
Do là làng nhỏ nên làng Yên Kiện không hình thành các xóm. Đinh nam trong làng được chia thành ba giáp (giáp của họ Hoàng, giáp của họ Nguyễn Viết, giáp của họ Nguyễn Văn và họ Phạm).
Trước Cách mạng, tuy là làng nhỏ, nhưng các lệ tục về ngôi thứ, tế lễ của Yên Kiện rất phiền phức. Làng kết nghĩa với làng Lưu Phái. Người đến lượt làm cỗ đón Quan anh (ngày 10 tháng Hai) phải mổ trâu hoặc bò rất tốn kém, mặc dù được làng cấp cho 3 mẫu 3 sào ruộng. Cũng trong dịp này, có lệ làm cỗ bổn bàn: mỗi năm, mỗi mâm của những người từ 18 tuổi trở lên có một người phải đăng cai làm một mâm cỗ 3 tầng gồm thịt gà, giò chả, các chép luộc và nhiều món ăn khác để đãi người trong mâm.
Làng Yên Kiện còn ngôi đình được tu sửa lại vào năm Duy Tân thứ 3 (1909), thờ Câu Mang đại vương cùng hai vợ của ông là Phương Dung và Phương Anh. Câu Mang là vị thần sống vào cuối thời Hùng Vương, có công giúp Hùng Duệ Vương đánh lại nhà Thục, được nhiều làng vùng chiêm trũng thờ. Tại đình làng hiện còn lưu 13 đạo sắc phong cho các vị thành hoàng.
Làng có chùa Đại Bi, dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 16 (1720), được tu bổ vào các năm Cảnh Hưng 28 (1767), Tự Đức nguyên niên (1848). Năm Thiệu Trị thứ hai (1842), đúc chuông.
