✨Phạm Thuần Nhân
Phạm Thuần Nhân (chữ Hán: 范纯仁, 1027 – 1101) là tể tướng nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc.
Xuất thân
Thuần Nhân tự Nghiêu Phu, là hậu duệ của tể tướng Phạm Lý Băng đời Đường, con trai thứ của danh thần Phạm Trọng Yêm. Nhà họ Phạm ban đầu ở Bân Châu, về sau dời đến Giang Nam, định cư ở huyện Ngô, phủ Tô Châu .
Vào đêm Thuần Nhân ra đời, mẹ là Lý thị mơ thấy đứa trẻ rơi ra từ mặt trăng, bèn đưa vạt áo hứng lấy, rồi sanh ra Thuần Nhân. Thuần Nhân có thiên tư cơ cảnh, thông minh, lên 8 tuổi có thể giảng giải những gì đã học được. Ban đầu, Thuần Nhân nhờ cha làm quan mà được bổ nhiệm làm Thái thường tự Thái chúc. Năm Hoàng Hữu đầu tiên (1049), Thuần Nhân đỗ tiến sĩ, được điều làm Tri Vũ Tiến huyện, lấy cớ xa cha mẹ già không đi; được đổi về huyện Trường Cát, lại không đi. Phạm Trọng Yêm hỏi: “Ngày xưa mày nói vì ở xa, nay ở gần rồi, sao cũng từ chối?” Thuần Nhân đáp: “Há có thể coi trọng lương bổng, mà xem nhẹ cha mẹ? Tuy ở gần, nhưng cũng không thể phụng dưỡng được.” Môn hạ của Trọng Yêm có nhiều hiền sĩ, như bọn Hồ Viện, Tôn Phục, Thạch Giới, Lý Cấu, Thuần Nhân đều giao du với họ. Thuần Nhân đêm ngày học tập, đến đêm cũng không ngủ, đốt đèn trong màn, khiến đỉnh màn nhuốm đen như mực.
Sau đó Thuần Nhân lấy thân phận Thiêm thư giữ chức Hứa Châu quan sát phán quan, Tri Tương Ấp huyện. Huyện có đất chăn nuôi, được vệ binh dùng để chăn ngựa; ngựa xéo lúa của dân, Thuần Nhân bắt lấy 1 người mà phạt đòn. Đất chăn nuôi không do huyện quản lý, quan viên coi đất giận nói: “Túc vệ của nhà vua, sao dám đối đãi như vậy?” rồi báo lên triều đình, khiến Thuần Nhân bị hặc rồi chịu tra xét rất gấp. Thuần Nhân nói: “Nuôi binh lấy từ thuế ruộng, nếu làm hại ruộng của dân mà không bị hỏi tội, thuế lấy từ đâu ra?” Triều đình giáng chiếu bỏ qua, còn theo đó đem đất chăn nuôi giao cho huyện, lệ này của nhà Tống chính là bắt đầu bởi Thuần Nhân. Bấy giờ hạn hán đã lâu, Thuần Nhân ghi nhận số thuyền buôn trong huyện, thuyết phục họ rằng: “Dân sắp không có cái ăn, mà còn buôn ngũ cốc làm gì. Hãy trữ trong chùa, sau này lúc thiếu thốn tôi sẽ chia cho họ.” Các con buôn nghe theo, chứa được mười mấy vạn hộc. Đến mùa xuân, các huyện đều đói, chỉ có dân huyện Tương Ấp là không thiếu ăn. Thuần Nhân được cất nhắc làm Giang Đông chuyển vận phán quan, đến tháng 6 ÂL năm sau (1065) được triệu vào triều làm Điện trung thị ngự sử, rồi thăng làm Thị ngự sử. Trong Bộc nghị chi tranh, Thuần Nhân ủng hộ lời bàn của Vương Khuê (phản đối hoàng đế truy tôn cho cha là Bộc vương Triệu Doãn Nhượng), cùng bọn ngự sử Lữ Hối nhiều lần dâng sớ tranh luận. Hoàng đế không nghe, Thuần Nhân trả lại cáo sắc thụ quan chức của mình, về nhà đợi tội. Đến khi Tào thái hậu viết thư tay tôn Bộc vương làm Hoàng, phu nhân làm Hậu, Thuần Nhân lại nói: “Bệ hạ là nhà vua đã trưởng thành để nắm quyền, sao lại nghe theo mệnh lệnh từ chốn phòng the, ngày khác trở thành chốn đặt điều của kẻ quyền thần, không phải là kế tự an của bậc chúa nhân từ.” Tiếp đó Anh Tông giáng chiếu vờ bãi việc truy tôn, cho bọn Thuần Nhân nhận lại quan chức. Họ đều xin rời khỏi triều đình, nên vào tháng giêng ÂL năm thứ 3 (1066), Thuần Nhân chịu ra làm Thông phán An Châu, rồi được đổi làm Tri Kỳ Châu. Về sau Thuần Nhân lần lượt được làm Kinh Tây đề điểm hình ngục, Kinh Tây Thiểm Tây chuyển vận phó sứ. được đổi làm Phán Quốc tử giám, nhưng ý định rời khỏi triều đình của ông càng thêm kiên định. Các chấp chánh sai người khuyên ông đừng đi, sẽ được trừ làm Tri chế cáo, nhưng Thuần Nhân dứt khoát từ chối. Thuần Nhân được gia quan Trực Long Đồ các, làm Tri Khánh Châu. Thuần Nhân được triệu làm Hữu gián nghị đại phu, tị hiềm thân tình nên từ chối (ý nói tình bạn với Tư Mã Quang), được đổi làm Thiên Chương các Đãi chế kiêm Thị giảng, rồi trừ làm Cấp sự trung. Khi ấy Cao thái hoàng thái hậu đồng thính chánh, lấy Tư Mã Quang nắm quyền, muốn dẹp hết cải cách thời Tống Thần Tông; Thuần Nhân khuyên không nên làm thái quá, Quang không nghe, càng thêm cố chấp. Thuần Nhân cho rằng thái độ quyết liệt của Tư Mã Quang chẳng khác gì Vương An Thạch năm xưa háo hức lập công, lại tiến hành vào lúc Thần Tông mất chưa được bao lâu là không hợp lẽ. Thuần Nhân với Quang vốn đều phản đối Vương An Thạch biến pháp, đến nay cùng tham dự triều chánh, lại trở nên bất đồng. Thuần Nhân được tiến làm Lại bộ thượng thư, mấy ngày sau được làm Đồng tri xu mật viện sự. Khi xưa Thuần Nhân bàn về Tây Hạ, xin bãi binh bỏ đất, nhằm chuộc lại người Hán đã bị bắt, tể tướng chưa trù trừ chưa quyết. Đến nay, Thuần Nhân nhắc lại lời bàn cũ, còn xin định giá 1 người Hán/10 xúc lụa (kiêm); việc được thi hành. Vùng biên bắt được tướng của chánh quyền Cổ Tư La là Thanh Nghi Kết Quỷ Chương (1087), Thuần Nhân xin giết hắn ngay tại biên thùy, để cảm tạ người vùng biên, triều đình không nghe. Có lời bàn muốn bổ nhiệm con của Quỷ Chương, nhằm giành lại đồng bằng Hà Hoàng, nên triều đình tha không giết, còn muốn trao quan chức cho Quỷ Chương; Thuần Nhân ra sức phản đối, mà con của hắn cuối cùng cũng không đến. Thuần Nhân được bái làm Thượng thư Hữu bộc xạ kiêm Trung thư thị lang, tức là Hữu tể tướng. Thuần Nhân nắm quyền chánh, chuyên mở rộng triển khai tâm ý của hoàng đế, lấy tấm lòng trung hậu, thành thật để thay đổi tác phong quan lại. Chương Đôn chịu giáng chức ra ngoài, triều đình cho rằng cha ông ta đã già, muốn sắp xếp cho ông ta đến quận gần nhà, nhưng rồi lại trì hoãn. Thuần Nhân đề nghị tránh bới móc thêm lỗi lầm của Đôn, gây tổn thương cho gia đình ông ta. Đặng Oản lần lượt xu phụ các tể tướng Vương An Thạch, Lữ Huệ Khanh, đến nay bị giáng chức, phải ra Hoài Đông, mà vẫn chịu chỉ trích không thôi. Thuần Nhân nói mình từng bị Oản vu cáo mà phải chịu truất quan, lúc này nhắc lại lời của Oản, rằng đã giáng chức ai thì không cần liên đới quá đáng. Cao thái hoàng thái hậu khen hay, nhân đó hạ chiếu không hỏi tội những người khi xưa vào hùa ủng hộ biến pháp thêm nữa. Thái Xác nhận lệnh ra Tân Châu, Thuần Nhân cố khuyên Cao thái hoàng thái hậu, lại cùng Vương Tồn can ngăn Triết Tông, nhưng Xác rốt cuộc vẫn chịu biếm ra Tân Châu. người Tây Hạ xâm phạm, triều đình hỏi tội quan tướng, Thuần Nhân tự nhận lỗi, xin chịu biếm chức. Mùa thu, triều đình giáng chiếu biếm quan của Thuần Nhân 1 đẳng, dời sang phủ Hà Nam, rồi dời lại Dĩnh Xương. Thuần Nhân xin rời chức. Triết Tông chưa muốn cho Thuần Nhân đi, gọi ông vào gặp, hỏi về biến pháp của Vương An Thạch, Thuần Nhân cực lực phản đối. Bấy giờ hoàng đế dùng đại thần trọng yếu, đều tự ý ra quyết định, các chức vụ thị tòng, gián quan phần nhiều cũng không cần triều thần thảo luận; Thuần Nhân đề nghị chấm dứt thói tệ này. Đối với việc quan viên cấp thấp chê bai chánh sự thời Cao thái hoàng thái hậu đồng thính chánh, Thuần Nhân lấy việc Tống Nhân Tông cấm bàn về chánh sự thời Lưu thái hậu để làm gương, khuyên Triết Tông học theo. dâng sớ xin tha cho bọn Đại Phòng, quả nhiên trái ý Chương Đôn, bị xem là cùng tội, chịu rớt chức, ra làm Tri Tùy Châu. Tháng 2 ÂL năm thứ 4 (1097), Thuần Nhân lại chịu biếm làm Vũ An quân Tiết độ phó sứ, an trí ở Vĩnh Châu. triều đình sai trung sứ đến Vĩnh Châu ban trà, thuốc. Giữa đường, Thuần Nhân được trừ làm Hữu chánh nghị đại phu, Đề cử Sùng Phúc cung. Vài tháng sau, Thuần Nhân được lấy thân phận Quan Văn điện Đại học sĩ, Trung Thái Nhất cung sứ đem chiếu lệnh về triều. Huy Tông lại sai trung sứ ban trà, thuốc, thúc giục Thuần Nhân vào chầu, tỏ ý khao khát muốn gặp ông. Thuần Nhân nhận chúc thọ của người nhà. Hôm sau, Thuần Nhân ngủ say rồi mất, hưởng thọ 75 tuổi. Triều đình giáng chiếu phúng 30 lạng bạc, sắc cho quan viên ở Hứa Châu, Lạc Dương giúp việc tang. Thuần Nhân được tặng quan Khai phủ nghi đồng tam tư, thụy là Trung Tuyên. Huy Tông ngự bút viết đầu đề trên bia (bi ngạch) là Thế Tể Trung Trực chi bi.
