✨Tăng Củng
Tăng Củng (chữ Hán: 曾鞏, 1019-1083), tự: Tử Cố (子固), hiệu: Nam Phong tiên sinh; là quan nhà Tống và là nhà văn đứng trong hàng tám nhà văn lớn thời Đường-Tống trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Tiểu sử
Tăng Củng là người Nam Phong, Kiến Xương (nay là huyện Nam Xương, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc).
Ông nội của Tăng Củng là Trí Nghiêu, thời Ngũ Đại Thập Quốc ở ẩn, không chịu ra làm quan, chỉ chuyên tâm nghiên cứu, sáng tác (có hơn trăm cuốn văn tập); đến thời Tống Thái Tông (ở ngôi: 976-997) mới ra làm Lại bộ Lang trung, Trực sử quán.
Cha của Tăng Củng là Tăng Mật, cũng là một danh sĩ, từng làm Ngọc Sơn lệnh (tương đương với chức huyện trưởng) huyện Ngọc Sơn thuộc Giang Nam. Trong một vụ án, ông bị người cùng quận là tướng Tiền Quyện vu cáo, bị bãi chức, sau mới được tha tội.
Thuở nhỏ, Tăng Củng là đứa trẻ thông minh, học giỏi. Năm 12 tuổi, ông đã nổi tiếng về tài văn, được lãnh tụ văn đàn lúc bấy giờ là Âu Dương Tu hết sức khen ngợi, cho rằng ông là thiên tài .
Năm Gia Hựu thứ hai (1057) đời Tống Nhân Tông (ở ngôi: 1022-1063), Tăng Củng cùng em là Tăng Bố và anh em Tô Thức, Tô Triệt đi thi Tiến sĩ và đều đỗ cao. Kỳ thi này do Âu Dương Tu làm Chánh chủ khảo.
Thi đỗ, Tăng Củng được bổ làm Tham quân tư pháp ở Châu Thái Bình (nay là phía đông huyện Đang Đồ, tỉnh An Huy). Sau đó, ông được chuyển đến kinh đô Khai Phong (nay thuộc tỉnh Hà Nam), chuyên làm công việc biên soạn và hiệu đính các thư tịch cho sử quán. Tiếp theo, đổi ông tới Việt Châu (nay thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang) làm Thông phán (tương đương chức Phó châu trưởng). Ở đây, ông xin bãi bỏ nhiều thứ thuế vô lý, và đề ra nhiều biện pháp để cứu đói cho dân
Về sau, Tăng Củng còn được điều đi làm Tri châu ở Phúc Châu (nay là huyện Mân Hầu, tỉnh Phúc Kiến), Hào Châu (nay là huyện Hào, tỉnh An Huy), Thường Châu (nay là huyện Thương, tỉnh Hà Bắc), và Minh Châu (nay thuộc Phụng Bắc, tỉnh Triết Giang).
Vào thời Tống Thần Tông (ở ngôi: 1067-1085), Tăng Củng được triệu về triều làm Phán Tam Ban viện. Bị Tể tướng là Lã Công Trứ ghen ghét, nên ông chỉ được đổi làm Sử quán tu soạn (làm công việc biên soạn và sửa chữa các sách trong sử quán), dù nhà vua rất muốn trọng dụng ông . Đáng kể có các bài: "Ký Âu Dương xá nhân thư" (Thư gửi Âu Dương công, tức Âu Dương Tu), "Tặng Lê, An nhị sinh tự" (Bài tự tặng hai anh em Lê, An), "Mặc Trì ký" (Bài ký Đầm Mực),...
Về thơ, thơ ông còn lại rất ít, nổi tiếng có bài "Ngu mỹ nhân thảo" (Cỏ Ngu mỹ nhân).
Theo sách Đường-Tống bát đại gia, thì văn chương của Tăng Cũng có mấy đặc điểm sau: 1/ Giỏi lý thuyết. 2/ Chữ nghĩa cô động, chắc chắn. 3/ Bố cục chặt chẽ. 4/ Giọng văn hào hùng, trang trọng. 5/ Ngắn gọn, trong sáng mà hàm súc.
Vì vậy, cổ văn của ông có ảnh hưởng rất lớn tới phái Đồng Thành đời nhà Thanh, nên có người gọi ông là "bậc thầy về cổ văn của phái Đồng Thành" .
Ông là người không chuộng hư danh, đã làm thì làm đến nơi chốn, và là người sống có tình có nghĩa. Thời trai trẻ, ông đã từng kết bạn với Vương An Thạch, nhưng sau do bất đồng chính kiến nên hai người không còn thân nhau nữa.
Ông có người em là Tăng Bố, cùng đỗ Tiến sĩ một khoa với ông, sau làm tới chức Thừa tướng nhà Bắc Tống.
Giới thiệu Ngu mỹ nhân thảo
