✨Thông Giác Thủy Nguyệt
Thông Giác Thủy Nguyệt (zh. 通覺水月, năm 1637 – ngày 6 tháng 3 năm 1704), còn có hiệu là Đạo Nam Quốc sư, là Thiền sư Việt Nam thời Lê Trung Hưng, thuộc đời thứ 31 tông Tào Động và là sơ tổ của Tào Động tông tại miền Bắc Việt Nam. Sư từng có thời gian tham học với Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo ở vùng Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc và được vị này ấn khả, kế thừa dòng pháp. Sau khi về nước, sư nỗ lực hoằng dương Phật pháp và có môn đệ xuất chúng là Thiền sư Chân Dung Tông Diễn.
Tiểu sử
Sư họ Đặng, sinh năm Đinh Sửu (1637), quê ở Thanh Tríều, huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam (nay là thôn Thanh Tríều, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Lớn lên, sư theo học Nho giáo. Đến 18 tuổi, sư thi đậu Cống cử tứ trường và được chọn làm quan.
Quá trình tu tập
Năm 20 tuổi, sư chán cõi đời vô thường và khởi ý chí tu hành giải thoát, mong muốn được tu Thiền học đạo. Sư bèn bỏ nghiệp Nho, tìm đến chùa xã Hổ Đợi, huyện Thụy Anh xin xuất gia học đạo. Ở đây sáu năm học các kinh sách, sư biết đó chưa phải là tông chỉ đúng đắn của đạo, bèn xin phép thầy đi du phương tham vấn khắp nơi. Sư đi tham vấn rất nhiều bậc tôn túc trong nước nhưng cơ duyên không khế hợp.
Năm 28 tuổi, sư quyết chí sang Trung Quốc cầu đạo. Tháng 3 năm Giáp Thìn (1664) niên hiệu Cảnh Trị Tríều Lê, sư bắt đầu hành trình sang Trung Quốc tìm thầy học đạo, cùng đi theo có 2 vị thị giả. Trên đường đi, một vị thị giả vì bị bệnh mà qua đời, sư bèn chôn cất tạm bên đường, cùng vị thị giả còn lại tiếp tục hành trình và phát nguyện sau khi được đạo về sẽ siêu độ cho người thị giả kia. Một hôm qua suối, sư ngẫu hứng làm thơ:
:Non nước với ta có nhân duyên
:Đã lội suối rồi lại vượt non
:Nước rửa bụi trần nhọc nhằn hết
:Núi nâng chân bước ngàn đạo cao.
Năm 1665, sư đến địa phận vùng Hồ Châu, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Sau nhiều ngày đi đường hỏi han sư mới đến được núi Phượng Hoàng (nay là núi Nhân Hoàng thuộc thành phố Hồ Châu, tỉnh Triết Giang). Tại núi này có Thiền sư Trí Giáo đang hoằng pháp và xiển dương Tào Động tại Nhân Vương Hộ Quốc Thiền Tự. Vì bất đồng ngôn ngữ nên sư chưa thể nhập chúng tu. Sư bèn kết am trước chùa, ban ngày học nói tiếng Trung, đêm chuyên tâm tọa Thiền..
Trí Giáo hỏi: "Chỗ an thân lập mệnh của ông là chỗ nào?"
Sư đáp: "Trong gió, lửa nổi dậy. Trên sóng nước an nhiên."
Trí Giáo hỏi tiếp: "Ðêm ngày ông giữ gìn nó ra sao?"
Sư đáp: "Ðúng ngọ trăng sao hiện. Nửa đêm mặt trời hồng."
Trí Giáo nói: "Chuyện an thân lập mệnh như thế được rồi, còn chuyện mặt mũi xưa nay của ông như thế nào?"
Sư thưa: "Quơ sào trên bóng cỏ. Tên nhọn sẽ bay ra."
Trí Giáo hoàn toàn hài lòng, đưa tay điểm lên trán sư 3 cái thầm ấn khả sư đã đại ngộ rồi nói: "Con rắn hai đầu ấy, đừng để nó chạy thoát! Hãy xỏ mũi nó! Cẩn thận! Người xứng đáng là con cháu ngoan của tông Tào Ðộng. Ta cho pháp hiệu là Thông Giáo Đạo Nam Thiền sư." Trí Giáo cho phép sư về Việt Nam mở Động Tông Nam Truyền - là một phái phụ của tông Tào Động với bài kệ truyền pháp phái:
:Tịnh trí thông tông
:Từ tính hải khoan
:Giác đạo sinh quang
:Chính tâm mật hạnh
:Nhân đức vi lương
:Tuệ đăng phổ chiếu
:Hoằng pháp vĩnh trường.
Hoằng pháp
Sư cùng thị giả trở về nước, đi bộ 5 tháng mới đến địa phận tỉnh Cao Bằng và thăm lại mộ người thị giả xưa. Sư tụng kinh siêu độ 3 ngày thì trên mộ mọc lên một đóa hoa sen. Dân chúng thấy kỳ lạ nên đua nhau đến xem. Kể từ đó, tông Tào Động ở phương Nam được thịnh hành, có người vì kính đức hạnh cúa sư mà cúng dường, hay xin được quy y, thọ giới, theo sư tu tập.
Một hôm, sư ngồi tựa ghế chợt thấy một con chim xanh bay tới, liền đốn ngộ tự ngâm kệ rằng:
:Hoa xuân nở hết lai sương thu
:Đời mộng nào chắc mãi bền lâu
:Vượt hẳn trời cao vui tự tại
:Càng khôn đâu chổ vướng trần nhơ.
Và bài kệ:
Sau đó, sư cáo biệt đại chúng, nói rằng: "Ta nay lên chơi núi Nhẫm bảy ngày nếu như không trở về, thì các ngươi tìm chổ nào có mùi thơm, thì ta ở chổ đó." Chúng bùi ngùi rơi lệ nhưng không ai dám đi theo. Sau đó 7 ngày, môn đệ lên núi thấy mùi hương ngào ngạt rất lạ. Họ đi đến một hang động đá ở núi Nhẫm Dương (tỉnh Hải Dương) thì thấy sư ngồi trang nghiêm kiết già trên một tảng đá đã thị tịch từ khi nào, thân thể vẫn mềm mại như lúc sống.
Bấy giờ là ngày 6 tháng 3 năm Giáp Thìn, niên hiệu Chính Hòa thứ hai mươi, đời vua Lê Hi Tông (1704), sư thọ 68 tuổi. Tứ chúng thỉnh nhục thân sư về hỏa táng chia xá lợi xây tháp thờ hai nơi, một tháp ở đầu núi Hạ Long, một tháp ở trước hang núi Nhẫm Dương. Vua Lê Hi Tông ban thụy hiệu là Đạo Nam Quốc Sư Bồ Tát. Hành trạng về cuộc đời của sư được ghi lại trong Tào Động Tông Nam Truyền Tổ Sư Ngữ Lục và Tào Động Hồng Phúc Phổ Hệ.
Nguồn tham khảo và chú thích
Thể loại:Thiền sư Việt Nam Thể loại:Tào Động tông Thể loại:Người Thái Bình
