✨Tiếng Illyria
Tiếng Illyria là một ngôn ngữ hay một nhóm các ngôn ngữ Ấn-Âu nói bởi người Illyria sống ở Đông Nam Âu thời kỳ cổ đại. Ngoại trừ một số tên người và địa danh, ngôn ngữ này không có văn liệu chứng thực nào còn sót lại, tuy nhiên lượng thông tin ít ỏi đó là đủ để kết luận rằng ngôn ngữ này thuộc ngữ hệ Ấn-Âu.
Trong các văn liệu cổ, thuật ngữ "người Illyria" được dùng để gọi nhiều bộ lạc khác nhau sống trên một phạm vi rộng lớn ở Đông Nam Âu, bao gồm Ardiaei, Autariatae, Delmatae, Dassareti, Enchelei, Labeatae, Pannonii, Parthini và Taulantii. Mức độ đồng nhất về mặt ngôn ngữ giữa các bộ lạc này vẫn còn là vấn đề còn chưa được làm rõ, tuy nhiên nghiên cứu eponym cho thấy sự tồn tại của một vùng ngôn ngữ ở phía nam khu vực này, khoảng Albania và Montenegro ngày nay, nơi đây có thể đã từng có dân số nói tiếng Illyria.
Hiểu biết về mối liên hệ giữa tiếng Illyria và các ngôn ngữ láng giềng vẫn còn rất hạn chế, do đó, tiếng Illyria thường được xếp vào một nhánh riêng trong ngữ hệ Ấn-Âu. Có ý kiến đề xuất mối liên hệ giữa tiếng Illyria và tiếng Messapi từng được nói ở miền Nam Ý, tuy nhiên không có bằng chứng xác thực; liên hệ với tiếng Veneti và tiếng Liburni cũng là vấn đề từng được thảo luận nhưng nay đã bị hầu hết các học giả bác bỏ. Một quan điểm phổ biến là tiếng Albania là hậu duệ hiện đại còn sót lại của tiếng Illyria, tuy nhiên đây cũng mới chỉ là giả thuyết.
Từ khoảng thời kỳ cận đại cho đến thế kỷ 19, thuật ngữ "tiếng Illyria" cũng được dùng để chỉ ngôn ngữ Slav Nam được nói ở vùng Dalmatia mà ngày nay được gọi là tiếng Serbia-Croatia, nhưng ngôn ngữ này chỉ là họ hàng xa với tiếng Illyria cổ thông qua tổ tiên chung là tiếng Ấn-Âu nguyên thủy. Trên thực tế, trừ khi tiếng Illyria là tổ tiên thật sự của tiếng Albania, giữa tiếng Illyria và tiếng Serbia-Croatia không hề có tiếp xúc với nhau bởi tiếng Illyria đã tuyệt chủng trước khi người Slav di cư tới bán đảo Balkan.
Phân loại
nhỏ|Các bộ lạc Illyria ở Đông Nam Âu Tiếng Illyria thuộc là một phần của ngữ hệ Ấn-Âu. Có rất ít thông tin về mối liên hệ giữa nó và các ngôn ngữ Ấn-Âu khác. Ngày nay, nguồn thông tin chủ yếu về ngôn ngữ Illyria đến từ các từ trong tiếng Illyria được nhắc đến trong văn liệu thời kỳ cổ đại, cùng với một số tên người, tên dân tộc, tên địa lí và tên vùng nước trong tiếng Illyria. Bởi sự khan hiếm bằng chứng này, rất khó xác định được cách các âm vị đã biến đổi trong tiếng Illyria; quan điểm phổ biến nhất ngày nay là các phụ âm hữu thanh bật hơi /bʰ/, /dʰ/, /ɡʰ/ trong tiếng Ấn-Âu nguyên thủy đã trở thành các phụ âm hữu thanh /b/, /d/, /ɡ/.
Tiếng Messapi là một ngôn ngữ thời đại đồ sắt nói ở Puglia bởi những người Iapygi (bao gồm người Messapi, Peuceti và Dauni), định cư ở bán đảo Ý sau khi di cư từ Illyria tới trong giai đoạn chuyển tiếp giữa thời đại đồ đồng và đồ sắt. Vì vậy, tiếng Messapi, với tư cách là một ngôn ngữ riêng biệt, được xếp vào cùng nhóm ngôn ngữ Cổ Balkan giống tiếng Illyria. Eric Hamp xếp các tiếng này vào một nhóm mang tên "tiếng Messapi-Illyria", và nhóm này lại cùng với tiếng Albania là một phần của nhóm "tiếng Ấn-Âu Adriatic" lớn hơn. Các hệ thống phân chia khác nhóm ba ngôn ngữ này vào các nhóm như "Tiếng Illyria Chung" và "Tiếng Cổ Balkan Tây".
Trong các nghiên cứu cũ hơn, các học thuyết theo trường phái Toàn Illyria xếp các ngôn ngữ Histri, Veneti và Liburni vào nhóm phương ngữ tiếng Illyria. Tuy nhiên, các bằng chứng khảo cổ và tên riêng mới phát hiện bổ sung đã làm rõ rằng các ngôn ngữ này không phải là phương ngữ và cũng không cùng nhánh với tiếng Illyria. Mối liên quan giữa tiếng Veneti và tiếng Illyria về sau đã bị bác bỏ, và hai ngôn ngữ này ngày nay không được coi là liên hệ gần gũi với nhau nữa. Các học giả ủng hộ xếp tiếng Illyria vào nhóm satem thì dựa trên những tên người và tên địa lý như Asamum, Birzinimum, Zanatis, vân vân; các học giả này chỉ ra rằng những tên này có nguồn gốc Ấn-Âu nguyên thủy nhưng đã mang những đặc trưng của quá trình satem hóa. Ví dụ, Osseriates phái sinh từ /*h₁éǵʰeros/ (hồ), Thêm nữa, Acrabanus là một tên ghép liên quan tới /akros/ trong tiếng Hy Lạp cổ đại, còn Clausal liên quan tới /klew/ (rửa), cả hai đều không cho thấy dấu tích của quá trình vòm hóa. Tên riêng Gentius hay Genthius cũng không thể dùng được để phân định centum-satem bởi có hai dạng trong tiếng Illyria của nó, đó là Genthius và Zanatis. Nếu Gentius hay Genthius phái sinh từ _ǵen-_ ("được sinh ra") thì đây chính là bằng chứng khẳng định phân loại centum, nhưng nếu như Zanatis mới là từ phái sinh từ gốc đó (hoặc từ gốc *ǵen- ("biết")) thì tiếng Illyria lại là một ngôn ngữ satem.
Dựa trên những bằng chứng đã có và cân nhắc tới sự thiếu hụt văn liệu tiếng Illyria còn sót lại, có thể kết luận rằng hiện chưa thể khẳng định chắc chắn liệu tiếng Illyria là ngôn ngữ centum hay satem. tuy nhiên trong một công trình về sau thì Krahe đã cân nhắc lại quan điểm này.
Géza Alföldy đề xuất phân chia các vùng lãnh thổ của người Illyria bị sáp nhập vào cương thổ La Mã sau này dựa trên nghiên cứu về tên riêng ở Illyria. Ông phân ra năm nhóm chính: (1) "người Illyria chính cống" ở nam ngạn sông Neretva và kéo dài tới ranh giới với tỉnh Macedonia ở sông Drin, bao gồm cả những người Illyria ở Bắc và Trung Albania; (2) người Delmatae ở trung phần bờ biển Adriatic, ở giữa đất người Liburni và "người Illyria chính cống"; (3) người Liburni Venetic ở đông bắc biển Adriatic; (4) người Japodes ở phía bắc người Delmatae và ở xa hơn người Liburni, tên gọi của họ là dấu hiệu cho thấy sự hòa trộn giữa ảnh hưởng người Veneti, Celt và Illyria; và (5) người Pannoni ở miền bắc Bosnia, bắc Montenegro và tây Serbia.
Radoslav Katičić bác bỏ cách phân loại này; dựa trên các tên riêng phổ biến của người Illyria "Illyricum", học giả này xác lập ba vùng lãnh thổ phân biệt: (1) Người Illyria Đông Nam, cư trú trải dài về phía nam từ nam bộ Montenegro và bao gồm phần lớn lãnh thổ của Albania ở phía tây sông Drin, mặc dù địa giới phía nam của vùng này còn là vấn đề chưa được làm rõ; (2) Người Illyria Trung, đất đai bao gồm phần lớn lãnh thổ Nam Tư, từ phía bắc của nam bộ Montenegro tới phía tây sông Morava, có lẽ bao gồm cả Pannonia ở phía bắc nhưng lại không gồm đất Liburnia cổ ở phía tây bắc; (3) Người Liburni, đặc trưng với những tên riêng tương tự như đã tìm thấy ở đất người Veneti ở phía đông bắc.
Phép đối chứng tên riêng không cung cấp được bằng chứng đầy đủ để khẳng định rằng người Illyria Đông Nam và Illyria Trung sử dụng hai phương ngữ khác nhau rõ rệt. Tuy nhiên, theo Katičić, vùng trung tâm của tiếng Illyria nằm ở mạn đông nam vùng Balkan, nơi thường được coi là đất của dân Illyria. Vùng đó ứng với Albania ngày nay. Người Illyria không để lại tới ngày nay bất cứ văn liệu nào khẳng định danh tính dân tộc và họ cũng không có bản khắc nào còn sống sót tới ngày nay; những dấu vết ngôn ngữ cuối cùng còn lại của người Illyria chỉ là một vài tên địa lý và một số giải nghĩa từ. phân các nguồn xác định vốn từ tiếng Illyria thành bốn loại: chữ khắc trên cổ vật; giải nghĩa từ trong văn liệu thời kỳ cổ đại; tên, bao gồm tên người (chủ yếu trên bia mộ) và tên địa lí (ví dụ như tên sông); từ mượn từ tiếng Illyria trong các ngôn ngữ khác. Loại cuối cùng vẫn là vấn đề gây tranh cãi. Các tên riêng được nghiên cứu có khoảng niên đại trải dài tới hơn một thiên niên kỷ, bao gồm cả các bằng chứng trên tiền cổ và các tên địa lí nguyên thủy được giả thuyết.
Niên đại
Tiếng Illyria được cho là tuyệt chủng vào khoảng giữa thế kỷ 2 và thế kỷ 6, tuy nhiên một nhánh có thể đã sống sót và phát triển thành tiếng Albania.
Có ý kiến cũng khẳng định rằng ngôn ngữ Illyria được duy trì ở vùng nông thôn, căn cứ theo lời chứng của Thánh Giêrônimô vào khoảng thế kỷ 4-5.
