✨Việc di dân và bỏ chạy từ khối phía đông
Việc di dân và bỏ chạy từ khối phía đông là một điểm tranh cãi trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Sau thế chiến thứ hai, việc hạn chế di dân được ban hành bởi các quốc gia trong khối phía đông, mà bao gồm Liên Xô và những nước vệ tinh của nó ở Trung và Đông Âu. Di dân chính thức chỉ được phép để đoàn tụ gia đình hay cho phép những người thuộc các dân tộc thiểu số trở về quê hương mình.
Các chính phủ khối phía đông lý luận là hạn chế việc di dân là cần thiết để ngăn ngừa khối này khỏi bị nạn chảy máu chất xám. Hoa Kỳ và các nước phương Tây cho đó là sự vi phạm nhân quyền. Mặc dù sự giới hạn này việc bỏ chạy sang phương Tây vẫn cứ xảy ra.
Sau khi Đông Đức thắt chặt việc kiểm soát biên giới vùng bị chiếm đóng của mình với Đông Đức, các khu vực thành phố ở Đông Berlin và Tây Berlin trở thành một lỗ hở, nơi mà các cuộc bỏ đi có thể xảy ra. Cái lỗ hở này được đóng lại qua việc xây dựng bức tường Berlin năm 1961. Sau đó, việc di dân từ khối phía đông bị giới hạn, trở thành những vụ bỏ chạy bất hợp pháp, di dân dân thiểu số bằng những thỏa hiệp song phương, và một số nhỏ những trường hợp khác.
Bối cảnh
right|thumb|Bản đồ của các nước [[khối phía đông ở Âu Châu]]
Đời sống ở khối phía đông
thumb|right|Xếp hàng để được phân phát dầu ăn ở [[Bucharest, Romania tháng 5 năm 1986]]
Khắp nơi ở khối phía đông, cả ở Liên Xô và những nước còn lại trong khối, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Sô Viết Nga được xem là nước tiền tiến, được cho là naibolee vydajuščajasja nacija (quốc gia lỗi lạc nhất) và rukovodjaščij narod (dân tộc dẫn đầu). Liên Xô đề xướng sự tôn kính những hành động và đặc tính của người Nga, và hệ thống cấp bậc cộng sản Liên Xô vào các nước khác thuộc khối phía đông. Khởi đầu, Stalin cai quản những hệ thống từ bỏ những cơ quan đặc biệt của phương Tây thuộc kinh tế thị trường, lối điều hành dân chủ (từ của Liên Xô gọi là "Dân chủ tư sản") và pháp quyền bằng những can thiệp một cách kín đáo của chính quyền. Liên Xô cho phép chiếm sung công đất đai và tài sản tư nhân.
Những chế độ mà nổi lên ở khối này bắt chước mô hình Liên Xô, không chỉ áp dụng kinh tế chỉ huy kiểu Liên Xô, mà còn áp dụng những phương pháp tàn độc áp dụng bởi Joseph Stalin và cảnh sát mật của Liên Xô để đàn áp đối lập thật sự và cả những thành phần có thể trở thành đối lập. Việc đàn áp những người bất đồng chính kiến và đối lập là những điều kiện đòi hỏi trước hết cho sự an toàn của quyền lực cộng sản trong khối phía đông, mặc dù mức độ đàn áp đối lập và bất đồng chính kiến khác nhau giữa các nước và tùy thời ở khắp khối. Hơn nữa, khối phía đông trải qua kinh nghiệm phát triển kinh tế sai lầm bởi các nhà kinh tế chỉ huy theo con đường phát triển rộng rãi thay vì mạnh mẽ, vài lùi xa những nước tương tự ở Tây Âu về GDP. Những quày hãng trống trơn trong các tiệm ngay cả ở Đông Đức cho ta một lời nhắc nhở về sự thiếu chính xác của những tuyên truyền cho là nền kinh tế phát triển rất tốt đẹp và không ngưng trệ.
Giới hạn di dân
Giới hạn di dân ở Liên Xô
right|thumb|Chiếu khán Liên Xô "loại 2" hiếm có cho di dân vĩnh viễn
Mặc dù chương trình đầu tiên của phong trào Bolshevik ở Nga gồm cả một đòi hỏi "hủy bỏ hộ chiếu", chỉ 2 tháng sau Cách mạng Nga (1917), chế độ mới đã áp dụng kiểm soát hộ chiếu và cấm những người có quốc tịch của các nước tham chiến rời khỏi. Lý do một phần là việc di cư có thể vì đối lập với nhà nước xã hội chủ nghĩa và họ cũng sợ là sự di cư sẽ làm tăng mạnh các quân đội đối nghịch. Tuy nhiên, Liên Xô không thể kiểm soát ranh giới của mình cho đến khi một hệ thống kiểm soát biên giới được thành lập qua một quân đoàn đặc biệt của Gosudarstvennoye Politicheskoye Upravlenie (GPU), vào năm 1928, làm cho cả việc di cư bất hợp pháp cũng không còn có thể thực hiện được nữa. Năm 1932, khi Stalin mới bắt đầu chính sách bắt buộc tập thể hóa, để tìm ra những chỗ ở khó tìm, và để tiêu diệt những phần tử không sản xuất, họ ra luật kiểm soát hộ chiếu nội địa. Moskovskaya Pravda sau này mô tả quyết định di dân như là "không tự nhiên, giống như là chôn sống ai đó." Những ước muốn rời khỏi đất nước, không những chỉ bị xem là những người bỏ chạy mà còn bị coi là những kẻ phản quốc. Thủ tướng Liên xô Nikita Sergeyevich Khrushchyov sau này nói rằng "Chúng tôi hoảng sợ, thực sự hoảng sợ. Chúng tôi sợ sự tan băng có thể làm thoát ra cơn lụt, mà chúng ta không thể kiểm soát và có thể nhấn chìm chúng ta. Tại sao nó có thể làm chúng ta chết chìm? Nó có thể tràn ngập bờ sông Liên Xô và hình thành một cơn sóng thủy triều mà cuốn trôi đi những cản trở và để lại những bức tường của xã hội chúng ta." Bắt đầu vào năm 1935, Joseph Stalin đã bắt đầu cắt đứt những đường giao thông từ bên ngoài vào các nước Cộng hòa Xã hội Xô Viết một cách hiệu quả (và cho tới khi ông ta chết), một cách hiệu quả không cho phép người ngoại quốc du hành trong Liên Xô để mà người bên ngoài không biết tới những tiến triển chính trị đã xảy ra bên trong. Trong suốt thời kỳ này, và cho tới cuối thập niên 1970, 25 năm sau cái chết của Stalin vào năm 1953, một số ít nhân viên ngoại giao và thông tín viên ngoại quốc được cho phép ở bên trong Liên Xô nhưng thường bị giới hạn trong một vài cây số của Moskva, trong khi điện thoại của họ bị nghe lén, nơi cư trú của họ bị giới hạn trong khu vực chỉ cho ngoại quốc ở, và họ thường bị theo dõi bởi nhà cầm quyền Liên Xô. Barbara Marshall ước tính là số người gốc Đức bỏ trốn hay bị trục xuất là khoảng 15 triệu. phần lớn ở và từ những lãnh thổ bị Liên Xô chiếm đóng trở thành khối phía đông, làm cho nó trở thành việc di dân lớn nhất trong lịch sử châu Âu hiện đại. Việc trục xuất này đã được đồng minh của thế chiến thứ hai đồng ý trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt. Ít nhất 2 triệu người đã chết trong khi bỏ chạy hay bị trục xuất, 400.000 tới 600.000 vì bạo lực. Tất cả những việc này xảy ra giữa 1944 và 1948. Con số tổng cộng bao gồm một số lớn chạy từ những vùng gần chiến trường khi hồng quân tiến vào những khu vực người Đức cư trú. Nhiều người biết về sự trả đũa của Liên Xô dối với thường dân Đức, chẳng hạn như binh lính Liên Xô hãm hiếp và phạm các tội ác khác. Tin tức của những hành động tàn bạo, như vụ thảm sát Nemmersdorf gây nhiều tranh cãi, Trong khi hàng triệu người gốc Đức bỏ đi hay bị trục xuất từ Đông Âu, vào khoảng 4 triệu người gốc Đức đã bị ngăn cản không cho di cư bởi quân đội Liên Xô hay đưa tới những vùng hẻo lánh của Liên Xô như là một phần chính sách của Stalin đối với người dân gốc Đức. Cho tới đầu thập niên 1950, biên giới giữa các vùng Đức bị chiếm đóng có thể đi qua dễ dàng. Lợi dụng đường này, con số người Đông Âu xin tị nạn chính trị ở Đức là 197.000 năm 1950, 165.000 năm 1951, 182.000 năm 1952 và 331.000 năm 1953, 226.000 đã chốn chạy chỉ trong 6 tháng đầu 1953.
Năm 1948, trong cuộc tranh luận về một tuyên bố chung về nhân quyền, Liên Xô đã không chấp nhận câu "Mỗi người có quyền đi ra khỏi bất cứ nước nào kể cả nước của mình." Lý luận là "nó sẽ khuyến khích di dân", Liên Xô muốn thêm câu "phù hợp với thủ tục theo luật lệ của nước đó ", mà chỉ được sự ủng hộ của Ba Lan và Saudi Arabia. Vào đầu thập niên 1950, phương pháp của Liên Xô để kiểm soát các di chuyển trong nước được noi theo bởi hầu hết các nước còn lại trong khối phía đông (cùng với Trung Quốc, Mongolia và Bắc Triều Tiên), với nhiều giới hạn để ngăn ngừa cuộc di dân. Họ cũng nhấn mạnh, cái nợ mà mỗi cá nhân thiếu nhà nước xã hội, mà là sự chăm sóc từ khi đẻ ra, bao gồm sự trợ cấp giáo dục và huấn luyện Mở một chính sách di dân sẽ tạo ra "chảy máu chất xám", bắt buộc nhà nước phải thay đổi cấu trúc lương lậu với cái giá mà các ưu tiên về kinh tế khác phải trả.
