✨Ngu Cơ
Ngu Cơ (chữ Hán: 虞姬, bính âm Hán ngữ: Yú Jī; khoảng 230 TCN - 202 TCN), mang họ Ngu, tên thật là Ngu Diệu Dặc (虞妙弋), thường được người đời sau gọi là Ngu mỹ nhân (虞美人), là người vợ duy nhất của Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ – một vị tướng quân phiệt thời kỳ Hán Sở tranh hùng.
Bà là nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, văn hóa dân gian Trung Hoa với cuộc đời gắn bó cùng Hạng Vũ. Ngu Cơ được nhắc đến lần đầu trong Sử ký Tư Mã Thiên, sau đó là Hán thư và dần được truyền tụng trong đời sống bình thường. Bà gắn liền với điển tích "Bá Vương biệt Cơ" (霸王别姬), một điển tích nổi tiếng về tình cảm, trở thành nỗi bi ca được nhớ đến qua nhiều thời kỳ trong nghệ thuật, thơ, phú, hội họa, và điện ảnh hiện đại.
Trong văn hóa dân gian, Ngu Cơ là một trong Tứ đại tình nữ (四大情女) – hình tượng về tình cảm sâu sắc của những người phụ nữ Trung Quốc xa xưa.
Lịch sử ghi lại
trái|nhỏ|Tranh Ngu Cơ trong tác phẩm thời [[nhà Thanh.]]
Ngu Cơ là một nhân vật sống ở thời kỳ chuyển giao giữa Vương quốc và Đế quốc trong lịch sử Trung Quốc. Xuất thân của Ngu Cơ hiện tại không có một tài liệu cổ nào chứng minh, theo hiểu biết thông thường, bởi vì bà trở thành vợ của Hạng Vũ, nên người đời thường cho rằng Ngu Cơ sinh tại vùng đất quê hương của Hạng Vũ là nước Sở, nay là tỉnh Giang Tô. Đối với tên họ của bà, sách Sử ký ghi rằng "Mỹ nhân tên Ngu" (美人名虞),
Năm 209 TCN, Hạng Vũ và chú là Hạng Lương khởi nghĩa để lật đổ nhà Tần. Không rõ thời điểm Ngu Cơ và Hạng Vũ gặp nhau. Hiện tại ngoài danh xưng "Mỹ nhân" trong hai quyển chính sử, người đời cũng không rõ quá trình kết thành phu thê của bà và Hạng Vũ. Theo hai cuốn chính sử, Ngu Cơ thường hay đi cùng Hạng Vũ.
Đến lúc này, chỉ có một điểm khiến điển tích khác so với lịch sử. Bên cạnh bài "Cai Hạ ca" được ghi chép lại, thì trong điển tích này xuất hiện một bài gọi là "Hòa Cai Hạ ca" (和垓下歌) do Ngu Cơ múa kiếm hát hòa theo:
Thấy Ngu Cơ chết, Bá Vương đau thương khôn nguôi khi mất đi người tri kỷ mà khóc hết dòng lệ, tả hữu xung quanh đều khóc, không ai có thể ngẩng lên nhìn. Kết cục sau đó đều như chính sử ghi chép lại, Bá Vương Hạng Vũ chọn hơn 800 kỵ binh trung thành, liều chết phá vòng vây của quân Hán, vượt ra ngoài. Chạy đến đình Ô Giang ở Trường Giang sông Dương Tử thì cùng đường.Tự thấy không còn chí khí qua sông về Giang Đông tái dựng cơ đồ, Bá Vương tự vẫn ở trấn Ô Giang.
Điểm đặc biệt nhất của điển tích là bài "Hòa Cai hạ ca" và tình tiết Ngu Cơ tự sát ngay sau đó. Về bài hát, tư liệu nhắc đến cụ thể nhất là từ "Sử ký chính nghĩa" của Trương Thủ Tiết đời nhà Đường, mà Thủ Tiết là dẫn từ Sở Hán xuân thu của học giả Tây Hán là Lục Giả, thất truyền từ thời kỳ Nam Tống. Sự chính xác của điển tích này cho đến nay vẫn là tranh luận, bởi vì cả Sử ký lẫn Hán thư đều không hề đề cập chuyện này, mà tác phẩm của Lục Giả lại là một trong các tư liệu để Tư Mã Thiên soạn nên Sử ký nổi tiếng. Bởi vì thất truyền, cộng thêm Hán-Đường đã trải qua quá lâu, không rõ thông tin mà Trương Thủ Tiết trích dẫn có phải từ Sở Hán xuân thu thực sự, hay là đã tam sao thất bản, đến nay cũng không thể khẳng định. Nhưng cho dù thế nào, điển tích "Bá Vương biệt cơ" về sau được tung hô hết mực, bởi điển tích được kết nối dựa trên nhiều sự kiện có thật trong lịch sử để nhấn mạnh mối tình thủy chung giữa Hạng Vũ và Ngu Cơ.
Quê quán và tưởng nhớ
Trong chính sử hoàn toàn không ghi lại quê quán của Ngu Cơ, sở dĩ người đời mặc định bà là người nước Sở (nay là khu vực tỉnh Giang Tô) chỉ bởi vì bà là vợ của Hạng Vũ, một quý tộc nước Sở chính gốc. Có hai giả thuyết khác nhau về quê quán cụ thể của bà, giả thuyết thứ nhất nói bà đến từ trấn Nhan Tập, nay thuộc huyện Thuật Dương, địa cấp thị Tú Thiên, trong khi giả thuyết thứ hai nói bà đến từ Tô Châu, nay là địa cấp thị Tô Châu. Các địa danh đều thuộc tỉnh Giang Tô, và cũng là quê hương của Hạng Vũ.
Ở trấn Nhan Tập, huyện Thuật Dương có địa danh Ngu Cơ câu (虞姬沟), một hào nước uốn lượn với phong cảnh đẹp, trong vùng có rất nhiều truyền thuyết liên quan đến Ngu Cơ cùng Hạng Vũ, như Yên chi tỉnh (胭脂井), Bá Vương kiều (霸王桥), Cửu long khẩu (九龙口) cùng Hạng Trạch (项宅). Căn cứ theo Giang Tây Cát An Lư Lăng Hạng thị gia phổ, Ngu Cơ được mô tả với cách gọi là Ngu Hậu: "Ngu Hậu sinh ra, có năm con phượng tỏa sáng trong nhà, mùi hương kì lạ không dứt, năm sinh là Đinh Sửu (224 TCN), mất năm Kỷ Hợi (202 TCN), táng ở Bành Thành". Một ghi chép khác cùng tại huyện Thuật Dương về Ngu Cơ rằng, có một viên quan, nhà thơ nổi tiếng thời Nhà Thanh là Viên Mai, trong thời gian giữ chức Tri huyện Thuật Dương từng làm một bài thơ "Quá Ngu câu du Ngu Cơ miếu", cũng tự chú là "Tương truyền, Ngu Cơ là người huyện Thuật vậy". Hiện tại ở vùng Thường Thục của Tô Châu, có nhiều địa danh lấy tên Ngu Cơ, ví dụ như huyện Thường Thục có biệt danh là Ngu Thành, lại có Ngu Sơn. Tương truyền, thôn mà bà sinh ra gọi là thôn Ngu Khê thôn.
Có nhiều giả thuyết về phần mộ Ngu Cơ và nhiều nơi tại Trung Quốc ngày nay có mộ của bà. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc ngày nay đã tổng kết các địa danh về phần mộ và nơi thờ bà xung quanh khu vực Cai Hạ trong lịch sử. Có thể kể đến huyện Định Viễn, thuộc địa cấp thị Trừ Châu, tỉnh An Huy, cách 60 dặm so với vùng trận đánh Cai Hạ, tuy nhiên ngày nay không còn dấu tích gì về mộ bà tại huyện này. giành đoạt giải Cành cọ vàng năm 1993 tại Liên hoan phim Cannes.

