✨Nguyễn Thành Ý
Nguyễn Thành Ý (chữ Hán: 阮誠意, 1820-1897), tự là Thiện Quan, hiệu là Túy Xuyên, là một quan đại thần triều Nguyễn. Ông được xem là vị lãnh sự ngoại giao đầu tiên của Đại Nam (1874-1883) tại Nam Kỳ thuộc Pháp, một trong những đại thần có xu hướng ủng hộ canh tân đất nước vào giữa thế kỉ 19.
Thân thế
Nguyễn Thành Ý sinh năm (1820) tại làng Túy La (nay thuộc xã Điện Quang), (về sau sang cư ngụ tại làng Bất Nhị, nay thuộc xã Điện Phước), huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay là huyện Điện Bàn), tỉnh Quảng Nam. Cha ông là Nguyễn Tấn Duệ, có thời giữ chức Thủ hạp nên dân trong vùng quen gọi là Thủ Quyển. Thủ Quyển thuở nhỏ rất có chí, nghiên cứu kinh sách, gia phong theo phong cách Nho gia, vì vậy ảnh hưởng đến sự thành đạt của con cái sau này. Mẹ ông là kế thất của Thủ Quyển, tên là Trương Thị Tam, sinh được 5 người con trai và 3 người con gái. Năm người con trai là: Nguyễn Khắc Thân (đỗ Tú tài); Nguyễn Chánh Tâm (đỗ Tú tài); Nguyễn Thành Ý (đỗ Cử nhân); Nguyễn Tu Kỹ (đỗ Tú tài); Nguyễn Tĩnh Cung (đỗ Cử nhân); vì thế được vua Tự Đức ban tặng danh hiệu "Ngũ tử đăng khoa" (Gia đình có năm con trai đỗ đạt).
Sự nghiệp quan trường
Nguyễn Thành Ý đỗ Cử nhân năm Quý Mão (1843) tại trường Thừa Thiên, thời Thiệu Trị. Sau khi thi đỗ, ông được bổ làm một chức quan nhỏ tại Huế. Một hôm, trong buổi tiệc đãi sứ thần nước Vạn Tượng (tức Lào ngày nay) qua triều cống, vua Tự Đức ra lệnh cho các quan làm thơ ca ngợi cảnh thái bình, khi các quan dâng thơ lên, đọc đến bài của Ông, vua Tự Đức phải thốt lên "Trẫm không ngờ Nguyễn Thành Ý làm thơ hay đến thế". Từ đó Ông được Tự Đức trọng dụng, bổ nhiệm làm Tri huyện Kiến Hòa, Tri phủ Tân Bình, Tri phủ Phước Tuy, Hộ đốc Gia Định, Quản đạo Phú Yên.
Sau khi Pháp hạ thành Gia Định, ông được bổ nhiệm làm Hộ đốc Gia Định, thay Tổng đốc Võ Duy Ninh tuẫn tiết. Tuy nhiên, khi ông vào đến nơi thì Pháp đã cho phá tung thành Gia Định. Vì vậy, không lâu sau ông được bổ làm Tri phủ Phước Tuy (nay là thuộc địa bàn 2 huyện Long Khánh và Long Thành, tỉnh Đồng Nai). Khác với hầu hết quan lại khác vốn giữ quan niệm bảo thủ, Nguyễn Thành Ý dù một lòng chống Pháp xâm lược, nhưng lại có quan điểm cởi mở và giao thiệp rộng. Trong thời gian làm quan ở Nam Kỳ, ông kết giao với nhiều người tiết nghĩa, đồng thời cũng bắt đầu học tiếng Pháp để tìm hiểu ý đồ thực sự của người Pháp ở Nam Kỳ.
Khi Pháp hạ Đại đồn Chí Hòa (tháng 2 năm 1861), sau đó là hạ thành Mỹ Tho (tháng 4 năm 1861), chiếm được Định Tường, tháng 9 năm 1861, ông cùng thuộc hạ là Tùy phái Phan Trung mộ được 4.000 nghĩa quân, gửi vào cùng đánh Pháp với nghĩa quân Trương Định. Nguyễn Thành Ý sau đó trở về nhiệm sở, chuẩn bị cho các đạo quân tiếp viện cho Gia Định từ Huế gửi vào. Tuy nhiên, 14 tháng 12 năm 1861, Pháp mở rộng tấn công ra Biên Hòa, đến ngày 7 tháng 1 năm 1862, đánh chiếm được Bà Rịa.
Trước sức mạnh của quân Pháp, triều đình Huế chấp nhận ký Hòa ước Nhâm Tuất 1862 với những điều kiện bất bình đẳng hoàn toàn có lợi cho Pháp, buộc phải nhường hẳn 3 tỉnh Đông Nam Kỳ cho Pháp. Nguyễn Thành Ý được rút về làm Chánh sứ Nha Hải phòng Quảng Nam.
Vị lãnh sự ngoại giao đầu tiên
Mặc dù từ năm 1866, Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị lập Lãnh sự bên cạnh người Pháp tại Gia Định, tuy nhiên triều đình Tự Đức không hiểu được giá trị của đề nghị này nên đã bác bỏ. Mãi sau khi Pháp chiếm trọn Nam Kỳ năm 1867, triều đình Huế mới nhận thấy sự bất lợi khi không có một lãnh sự ở Nam Kỳ. Trong bản dự thảo để thay thế Hòa ước Nhâm Tuất 1862, triều đình Huế đã đưa điều khoản lập lãnh sự. Hòa ước Giáp Tuất 1874 được ký, với Điều 20 quy định: "... Hoàng thượng đức vua An Nam có quyền bổ nhiệm các Trú sứ ở Paris và ở Sài Gòn."
Với kinh nghiệm lịch duyệt, quảng giao, khả năng giao tiếp tiếng Pháp và sự hiểu biết về đất Nam Kỳ, tháng 11 năm 1874, Nguyễn Thành Ý được triều đình bổ nhiệm làm Khâm phái kiêm Lãnh sự ở Gia Định, hàm Hồng lô tự khanh
Tháng 9 năm 1877, ông được thăng hàm Quang lộc tự khanh, sung chức Chánh khâm phái, cùng với Vũ Văn Phú, Nguyễn Tăng Doãn dẫn đoàn sứ bộ mang các đồ thủ công mĩ nghệ danh tiếng của nước ta sang Pháp đấu xảo. Biện lý Lễ Bộ là Nguyễn Lập vào Gia Định làm chức Lãnh sự thay ông. Không lâu sau, Kiến Phúc băng hà, triều đình tôn Hàm Nghi lên ngôi.
Lợi dụng sự thay chúa đổi ngôi của triều đình Đại Nam, người Pháp mượn cớ can thiệp sâu hơn. Lúc Kiến Phúc còn trên ngôi, họ ép buộc triều đình Đại Nam phải ký Hòa ước Giáp Thân 1884 với những điều khoản sửa đổi có lợi hơn cho Pháp, chính thức chia cắt Đại Nam làm 3 Kỳ với những hình thức cai trị hoặc bảo hộ khác nhau. Tháng 3 năm 1885, nhân việc triều đình Hàm Nghi cho khởi phục nguyên hàm tổng đốc hưu trí Vũ Trọng Bình, một người nổi tiếng thẳng tính và thanh liêm, làm Thượng thư Bộ Hộ, sung Cơ mật viện đại thần; và do đó, chuyển đổi Phạm Thận Duật về làm Thượng thư ở Bộ Hình. Công sứ Pháp tại Huế phản đối, tuyên bố không chấp nhận, vì Vũ Trọng Bình từng chỉ huy quân dân Đại Nam chống Pháp ở Nam Định năm 1883. Vì vậy, Vũ Trọng Bình nhân đó dâng sớ từ chối, lại về hưu. Phạm Thận Duật vẫn làm thượng thư Bộ Hộ. Nguyễn Thành Ý được bổ vào làm Tả tham tri bộ Hình, giữ ấn triện Bộ Hình.
Trước thời cuộc ngoại xâm nội loạn, chỉ mới giữ quyền 3 tháng, chán nản trước hành động lộng hành thoán thì của quyền thần, tháng 6 năm 1885, ông dâng sớ cáo ốm, xin được về hưu trí
Trong đời quan nghiệp, có lúc ông thấy nản lòng trước tình cảnh vua tôi, nịnh thần hại nước hại dân, nên nhiều lần ông đã phản kháng, suýt bị ghép tội khi quân. Bởi vậy, ông thường khuyên con cháu trong nhà: "Ta đang mắc nợ vua, ráng trả xong, các anh, các em, các cháu ở nhà lo dạy học, phụng dưỡng cha mẹ, đừng ham chức tước mà khổ tâm".
Nguyễn Thành Ý có hai người vợ. Một bà người Quảng Nam, sinh được một người con gái, sau gả cho ông Cử Đỉnh; và 2 người con trai là ông Ấm Đạm, học giỏi nhưng không ra làm quan, và ông Ấm Lân, từng làm Tri huyện Quảng Điền. Một bà người Gia Định thì chỉ sinh một người con trai là Ấm Hồ, có tài làm thơ Nôm và soạn tuồng hát bội.
