✨Tu Ma Na Phật

Tu Ma Na Phật

Thể loại:Bản mẫu thanh bên theo chủ đề

**Tu Ma Na Phật** (Pāli:_Sumana Buddha_ | “Sumana" trong tiếng Pāli có nghĩa là "Người có tâm ý thiện lành" hoặc "Người vui vẻ, phúc hậu."). **Tu Ma Na Phật** xuất hiện trong một _khoảng thời kỳ dài vô lượng kiếp_ trước thời kỳ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài thuộc kiếp [https://theravada.vn/chuong-i-ten-goi-kiep-trai-dat-kappa/ Bhadda-kappa] (kiếp có 5 vị phật xuất hiện) và là Vị phật thứ 7 trong [https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat-hoc-online/hien-kiep-k34226.html Hiền Kiếp (Bhadrakalpa)] , là một trong những [http://phatgiaonguyenthuy.com/article/pali/kiep.html kiếp] được coi là thịnh vượng, khi mà nhiều vị Phật xuất hiện để dẫn dắt chúng sinh. Ngài là con Vua _Sudatta_ (thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ, là vị vua tại thành _Mekhala_),Hoàng hậu _Sirimā_ là mẹ và vợ là _Vataṃsikā_ và hoàng tử là _Anupama._ **Tu Ma Na Phật** là vị Phật thứ ba trong danh sách các vị Phật quá khứ (tính từ sau Nhiên Đăng Cổ Phật) đã được ghi nhận, sau Phật Man Giá La và trước Phật Ly Bà Đa.Với chiều cao 90 cánh tay (khoảng 45 mét), Ngài được mô tả là tỏa sáng rực rỡ như vàng ròng, chiếu sáng khắp [https://www.pagodethienminh.fr/?page_id=4382 mười ngàn thế giới]. Ngài đã khơi nguồn giáo pháp, dẫn dắt vô số chúng sinh vượt qua biển khổ để đến bờ giác ngộ.

Cuộc đời, Gia thế

Trước Khi Xuất Gia

Đức Tu Ma Na sinh ra vào một thời kỳ mà Giáo Pháp chưa xuất hiện và chúng sanh cần một vị Đạo Sư để hướng dẫn thoát khỏi khổ đau. Thành phố nơi Ngài đản sanh ra được gọi là Mekhala, một thành phố cao quý và tráng lệ, phản ánh sự hưng thịnh và văn minh của thời đại ấy. Cha của Ngài Vị vua dòng Sát-đế-lỵ (Kshatriya) tên là Sudatta. Là một vị vua uy nghiêm và có đức hạnh, ông cai trị thành phố Mekhala với sự công minh và từ bi. Mẹ là Hoàng hậu tên là Sirimā, một người phụ nữ đức hạnh, có vẻ đẹp và tâm từ bi nổi bật.

Đức Phật Tu Ma Na đã sống trong cảnh xa hoa giữa gia đình suốt 9.000 năm trước khi rời bỏ thế tục, một thời gian dài Ngài sống trong vinh quang và an lạc, nhưng tâm trí của Ngài không bị ràng buộc bởi vật chất. Trong thời gian ngữ trị Ngài ở 3 cung điện nguy nga tên là Canda, Sucanda, và Vaṭaṃsa được xây dựng để phục vụ cho sự hưởng thụ của Ngài. Chúng được trang hoàng lộng lẫy, tượng trưng cho sự giàu sang tột bậc của bậc vương tử. Tu Ma Na có rất nhiều cung nữ hầu cận, với con số lên tới 6,300,000 người được trang điểm lộng lẫy, nhưng người vợ chính của Ngài tên là Vataṃsikā. Con trai của Ngài là Anupama, một người được xem như hình mẫu lý tưởng trong hoàng tộc.

Khi đức Tu Ma Na nhìn thấy bốn điều báo hiệu — (Sinh lão Bệnh Tử) , tâm trí Ngài lập tức nhận ra sự vô thường của thế giới. Tâm Ngài khao khát tìm kiếm con đường thoát khỏi sự đau khổ.

Con đường xuất gia

Tu Ma Na rời bỏ hoàng cung bằng phương tiện voi, một biểu tượng của sự uy nghi và quyết tâm. Sau đó, Ngài nỗ lực tu hành suốt mười tháng, nhờ vô lượng kiếp tu tâp, tích lũy phước hạnh thực hiện những khổ hạnh và đạt được những tầng cao nhất của thiền định và trí tuệ.

Sau quá trình tu tập khổ hạnh và thực hành thiền định sâu sắc, Đức Phật Tu Ma Na đã giác ngộ hoàn toàn tại cội cây Nāga(Vấp) trở thành một bậc Toàn Giác. Ngài chứng đắc quả vị Phật. Từ đây, Ngài trở thành bậc Lãnh Đạo chúng sanh, vượt qua mọi phiền não và thành tựu trí tuệ không ai sánh bằng.

Những Giáo Pháp của ngài

Những buổi thuyết pháp

Sau khi giác ngộ, Đức Phật Tu Ma Na đã khởi đầu việc chuyển pháp luân tại thành phố Mekhala. Giáo Pháp của Ngài bao gồm Tứ Niệm Xứ, con đường thẳng tắp đưa chúng sanh đến giải thoát. Ngài đã ba lần thuyết giảng Đại Hội Chúng Tỳ Khưu, nơi có hàng trăm ngàn koṭi (đơn vị số lượng: Ức = 100.000.000)vị đạt được giải thoát.Đức Phật Sumana có rất nhiều đệ tử, trong đó nổi bật nhất Hai vị Thinh Văn hàng đầu SaraṇaBhāvitatta. Hai nữ Thinh Văn hàng đầu: Soṇā và _Upasoṇā._Thị giả: _Udena._Hai nam thí chủ hộ độ hàng đầu: VaruṇaSaraṇa. Hai nữ thí chủ hộ độ hàng đầu: CālāUpacālā

Các bài giảng của Ngài giúp hàng triệu chúng sanh từ bỏ phiền não và đạt đến các quả vị giác ngộ. Những lần thuyết pháp nổi bật nhất:

Lần đầu tiên: Một trăm ngàn koṭi vị giác ngộ. (10,000,000,000,000 hay 10 nghìn tỷ)

Lần thứ hai: Một trăm ngàn koṭi vị khác lãnh hội. (20,000,000,000,000 hay 20 nghìn tỷ)

Lần thứ ba: Chín mươi ngàn koṭi vị đạt giải thoát khi Ngài giảng về sự Tịch Diệt. (9,000,000,000,000 hay 9 nghìn tỷ)

Pháp của Đức Phật Tu Ma Na nhấn mạnh sự thực hành cụ thể để đoạn tận khổ đau, diệt trừ tham sân si, và đạt Niết Bàn thông qua con đường thẳng tắp như Tứ Niệm Xứ, Tứ Diệu Đế, và Bát Chánh Đạo. Những bài giảng của Ngài truyền cảm hứng cho vô số chúng sanh đạt đến giác ngộ.

Phật Thích Ca lúc này

Trong thời Phật Tu Ma Na, tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Long Vương Atula, một vị vua rồng có đại thần lực và nhiều công đức. Long Vương Atula đã dâng lễ vật và phục vụ Phật Tu Ma Na cùng chúng Tỳ Khưu bằng các nhạc cụ thiên đình, thức ăn, nước uống, và y phục. Phật Tu Ma Na đã tiên tri rằng: Long vương sẽ tích lũy mười pháp Ba-la-mật qua vô lượng kiếp.

  • Trong tương lai, sau nhiều kiếp, Atula sẽ thành tựu quả vị Phật với danh hiệu Gotama.
  • Ngài sẽ sinh ra trong thành Kapilavatthu, con của vua Suddhodana và hoàng hậu Māyā.
  • Hai đại đệ tử là Sāriputta (Upatissa) và Moggallāna (Kolita).
  • Tuổi thọ của Ngài sẽ là =100 năm, và Ngài sẽ giác ngộ dưới cội cây Assattha (cây Bồ Đề).

Niết Bàn

Đức Phật Tu Ma Na sống thọ 90.000 năm và sau khi hoàn thành sứ mệnh giáo hóa, Ngài nhập Vô Dư Niết Bàn tại tu viện Aṅgāra. Ngôi bảo tháp thờ Ngài được xây dựng với chiều cao bốn do-tuần (= 18.72 im) trở thành nơi tôn kính của chúng sanh.

👁️ 71 | ⌚2025-09-16 22:47:18.056

QC Shopee
Thể loại:Bản mẫu thanh bên theo chủ đề **Tu Ma Na Phật** (Pāli:_Sumana Buddha_ | “Sumana" trong tiếng Pāli có nghĩa là "Người có tâm ý thiện lành" hoặc "Người vui vẻ, phúc
Cỗ Máy Thao Túng (Mạng xã hội đã can thiệp vào cuộc sống của chúng ta như thế nào và chúng ta phải thích ứng ra sao)- Sinan Aral - Tủ sách Hiểu Thực Tại
thumb|Phù điêu **"7 vị Phật"**, [[Sanchi (khoảng thế kỷ thứ nhất TrCN/CN).]] Theo thế giới quan Phật giáo, thế giới trước sau có vô số vị Phật xuất thế. Chỉ riêng trong thế giới hiện
- Vòng Tay Đá Cẩm Thạch Sơn Thủy Phối Mã Não Đen Ngọc Quý Gemstones VT19 - Đá cẩm thạch còn có một tên gọi khác là ngọc phỉ thúy, trong dân gian có truyền thuyết
Dây chuyền bạc 935 gắn đá Mã Não phù hợp với mệnh Kim, Hỏa và Thổ Dây chuyền có giấy kiểm định và giấy bảo hành kèm theo Chọn dây chuyền phong thủy  hợp mệnh
- Vòng Mala Ngọc Bích Phối Mã Não Đen Ngọc Quý Gemstones VT23 được làm từ đá Ngọc Bích (Nephrite) là biểu tượng của sức khỏe. Nó có tác dụng mang đến vận may, giúp người
**_Ma-Na_** là album biên tập, được Key Sounds Label phát hành lần đầu tiên vào ngày 12 tháng 8 năm 2005 tại Comiket 68, Nhật Bản, mang số catalog _KSLA-0018_. Album gồm một đĩa và
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
**Na Uy** (Bokmål: _Norge_; Nynorsk: _Noreg_), tên chính thức là **Vương quốc Na Uy**, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây
**Lán Na** (tiếng Thái: ล้านนา; Hán-Việt: **Lan Nạp** 蘭納) là tên một vương quốc cổ từng tồn tại từ cuối thế kỷ 13 đến gần cuối thế kỷ 18 ở miền núi phía Bắc của
**Na-lạc lục pháp** (zh. 那洛六法, bo. _nāro chodrug_ ནཱ་རོ་ཆོས་དྲུག་, cũng được gọi là **Na-lạc du-già tốc đạo** hay "Sáu giáo pháp của Na-lạc-ba" (zh. 那洛巴, bo. _nāropa_), là một loạt giáo pháp Tây Tạng thuộc
Tượng Pháp Vũ tại [[chùa Keo (Hà Nội)]] Tượng Pháp Vân, ở [[Chùa Dâu, Bắc Ninh]] **Tứ Pháp** (Chữ Hán: 四法) là các vị Phật - Bồ Tát có nguồn gốc từ các nữ thần
Tượng [[Thích-ca Mâu-ni tu khổ hạnh theo phong cách Phật giáo Hy Lạp hóa, khoảng thế kỷ thứ 2–3, Gandhara (nay thuộc miền đông Afghanistan), Bảo tàng Lahore, Pakistan.]] **Phật giáo Nguyên thủy**, còn gọi
**Tử thư** (zh. 死書, bo. _bardo thodol_ བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་, nguyên nghĩa là "Giải thoát qua âm thanh trong Trung hữu", en. _liberation through hearing in the Bardo_) là một tàng lục (bo. _gter ma_ གཏེར་མ་), được
nhỏ|phải|Tranh vẽ về A-na-luật (Aniruddha) **A-na-luật** hay **A-nậu-lâu-đà** (tiếng Phạn: _Anuruddha_/_Aniruddha_; tiếng Tạng: མ་འགགས་པ་; tiếng Trung: 阿那律) là một trong Thập đại đệ tử và là anh em họ của Đức Phật Cồ Đàm. Tôn
nhỏ|phải|Tượng các đệ tử của Đức Phật, đặt tại trong Miếu Ngũ Hành Nương Nương **Thập đại đệ tử** (chữ Hán: 十大弟子, ) là danh xưng dùng để chỉ mười đệ tử quan trọng của
Thuốc Nhuộm Tóc Thời Trang Nâu Rêu Sáng ( Sang Chảnh ) Nên NGay Từ Lần Nhuộm Đầu Tiên̂́ ̣̂ ̛, ̀ ̂ ̀ ̛̀ ̂ (level 4-5 trở lên) ̀ ̛̣ ̛́ ̣ ̂́
Thuốc Nhuộm Tóc Thời Trang Nâu Rêu Sáng ( Sang Chảnh ) Nên NGay Từ Lần Nhuộm Đầu Tiên̂́ ̣̂ ̛, ̀ ̂ ̀ ̛̀ ̂ (level 4-5 trở lên) ̀ ̛̣ ̛́ ̣ ̂́
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
thumb|Bản đồ Bốn thánh tích Tứ Động Tâm () trên bản đồ Ấn Độ và Nepal thời hiện đại. Các địa điểm có là thuộc Tám thánh tích (gồm Tứ Động Tâm) phát sinh sau
PHẬT HỌC PHỔ THÔNG - Bộ giáo khoa về Phật học (3 tập, bìa cứng) PHẬT HỌC PHỔ THÔNG là bộ sách giáo khoa Phật học đầu tiên được Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
KHÓA I Lời nói đầu 1. Đạo Phật 2. Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (từ giáng sanh đến thành đạo) 3. Lược sử Đức Phật Thích ca Mâu Ni (từ Thành đạo
PHẬT HỌC PHỔ THÔNG - BỘ SÁCH THIẾT YẾU DÀNH CHO MỌI PHẬT TỬ PHẬT HỌC PHỔ THÔNG là bộ sách giáo khoa Phật học đầu tiên được Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa biên soạn
**Duy-ma-cật sở thuyết kinh** (, , _Vimalakīrti Nirdeśa Sūtra_, ) là một tác phẩm quan trọng của Phật giáo Đại thừa, có ảnh hưởng rất lớn đến nền Phật giáo tại Trung Quốc, Việt Nam
Kem dưỡng da giữ ẩm bảo vệ da khỏi tác động có hại của các nhân tố ô nhiễm từ môi trường, từ đó hạn chế các dấu hiệu lão hóa da, da khô ráp,
Hành trình sinh tử Công ty phát hành: Thái Hà Tác giả: Dzongsar Jamyang Khyentse Dịch giả: Lạc Hải Âm / Hiệu đính: Nguyễn Nam Ngày xuất bản: 9/2020 Nhà xuất bản: Hà Nội Số
Hà Lan, bất chấp diện tích và dân số thực sự khiêm tốn, có một phần đóng góp đáng kể trong quá trình hình thành nên xã hội hiện đại ngày nay. Đất nước Hà
⭐ Ole Henriksen Phat Glow Facial Mask là một loại mặt nạ chống lão hóa hoạt động với PHAs mạnh mẽ và nhựa cây bạch dương Bắc Âu để tẩy tế bào chết và làm
HỐ ĐEN TÂM LÝ - GHI CHÉP TỪ BÁC SĨ TÂM THẦN TẠI NEW YORK: ĐIỀU GÌ ĐANG XẢY RA TRONG TÂM TRÍ CỦA MỘT NGƯỜI MUỐN TỪ BỎ CUỘC SỐNG? “Ích kỷ” - Đó
Thiết kế hiện đại với 2 vùng nấu Bếp điện từ Panasonic KY-C227EHRA có thiết kế hiện đại với 2 vùng nấu cùng mặt kính Temper được sản xuất tại Nhật Bản có khả năng chịu
thumb|_Eduskunta_, quốc hội của [[Đại công quốc Phần Lan (lúc đó là một phần của Nga), có quyền bầu cử phổ thông vào năm 1906. Một số tiểu bang và vùng lãnh thổ có thể
**Cưu-ma-la-thập** (chữ Nho: 鳩摩羅什; tiếng Phạn: **Kumārajīva**; dịch nghĩa là **Đồng Thọ**; sinh năm 344, mất năm 413) là một dịch giả Phật học nổi tiếng, chuyên dịch kinh sách từ văn hệ tiếng Phạn
Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời (Tái Bản) ------------   Suối nguồn phát sinh của đạo Phật là một sự giác ngộ về sự thật của cuộc đời (Tứ diệu đế), vì vậy đạo Phật
Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời (Tái Bản) ------------   Suối nguồn phát sinh của đạo Phật là một sự giác ngộ về sự thật của cuộc đời (Tứ diệu đế), vì vậy đạo Phật
Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời (Tái Bản) ------------   Suối nguồn phát sinh của đạo Phật là một sự giác ngộ về sự thật của cuộc đời (Tứ diệu đế), vì vậy đạo Phật
Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời (Tái Bản) ------------   Suối nguồn phát sinh của đạo Phật là một sự giác ngộ về sự thật của cuộc đời (Tứ diệu đế), vì vậy đạo Phật
Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời (Tái Bản) ------------   Suối nguồn phát sinh của đạo Phật là một sự giác ngộ về sự thật của cuộc đời (Tứ diệu đế), vì vậy đạo Phật
Phật Học Thời @ Một tiêu chuẩn người hoằng pháp giảng giải giáo pháp cho mọi người cần đáp ứng ba tiêu chí sau, đó là phải khế lý, khế cơ và khế thời. Khế
Tên sách       Phật học thời @ Tác giả          Thích Hiền Thạnh biên soạn Giá      139.000đ Số trang         232  trang Nhà xuất bản Lao Động Khổ     14,5x20,5cm Barcode/ISBN           8935280916623 - 9786043607833 Trọng lượng  150 gram Một tiêu chuẩn người hoằng pháp giảng giải giáo pháp cho mọi người cần đáp ứng ba tiêu chí sau, đó là phải khế lý, khế cơ và khế thời. Khế lý là giảng giải làm sao cho người nghe hiểu được chân lý một cách chính xác, tránh sự ngộ nhận sai lầm đối với chân tướng sự thật. Khế cơ là phải phù hợp với trình độ, căn cơ và hoàn cảnh của mỗi người. Khế thời có nghĩa là tùy vào mỗi thời đại mà các giáo lý, các khái niệm Phật học cần được diễn giải dưới những hình thức khác nhau, tùy theo mức độ phát triển nền tri thức của nhân loại thời kỳ đó, như vậy mới giúp cho Phật pháp trở nên gần gũi và dễ tiếp nhận hơn. Do vậy mà trong Phật pháp hình thành thêm bộ luận tạng, là những trước tác của người đời sau tùy vào thời đại của mình mà có những ngôn từ và cách trình bày khác nhau, nhằm giúp cho giáo lý và các khái niệm trong kinh Phật trở nên dễ hiểu và gần gũi với người ở thời đại đó. Thời đại ngày nay chính là thời đại của khoa học kĩ thuật, con người gần như tin tưởng khoa học một cách tuyệt đối và áp dụng khoa học vào trong mọi lĩnh vực như kinh tế, chính trị, y tế, giáo dục, v.v.. Mặc dù, nhờ có các nhận xét, đánh giá của các nhà khoa học danh tiếng về Phật giáo, cũng như nhờ các phương tiện truyền thông giúp sức làm nhiều người hiểu rõ hơn về Phật giáo, giúp hầu hết mọi người không còn cho rằng Phật giáo là dành cho những hạng người bi quan yếm thế nữa, nhưng đa số vẫn chưa hiểu đúng về Phật giáo. Đó là xem Phật giáo như là những tôn giáo thông thường, xem Phật, Bồ tát như là thần linh có thể ban phước giáng họa cho con người. Khá hơn thì xem Phật giáo như là một nền giáo dục văn hóa đạo đức, giáo dục nhân quả giúp con người có được sự an vui và hạnh phúc hơn trong cuộc sống. May mắn hơn nữa thì tiếp cận được con đường tu hành giải thoát của Phật giáo, nhưng đa số cũng chỉ dừng lại ở mức học thuật, học vấn là chủ yếu, chứ vẫn chưa đủ sức thắng được sự hấp dẫn, sự cám dỗ của thời đại vật chất như hiện nay. Thời đại hiện nay là thời đại của dục vọng, là thời đại mà vật chất lên ngôi. Căn nguyên sâu xa chính là nhờ sự hỗ trợ của khoa học, đã giúp con người dễ dàng tạo ra đủ các loại đồ vật cũng như là đủ các loại phương tiện để thỏa mãn những dục vọng của mình. Điều này khiến cho người học Phật thời nay dù có tin tưởng, dù có ngưỡng mộ những lời Phật dạy, nhưng trước những cám dỗ như của thời đại hiện nay cũng khó mà cưỡng lại được. Khoa học ra đời đã giúp cho nhân loại giải thích được rất nhiều hiện tượng trong tự nhiên, phá bỏ được nhiều hủ tục mê tín dị đoan, giúp con người làm được những điều phi thường mà trước kia không thể làm được, hoặc giúp cho những kẻ phàm phu như chúng ta có thể tin chắc vào sự tồn tại của những thứ mà chúng ta không thể thấy được như từ trường, sóng điện từ, nguyên tử, phân tử, v.v.. Như vậy, liệu việc biết vận dụng khoa học một cách khéo léo có thể giúp chúng ta có được một nhận thức chính xác hơn về khái niệm vô ngã1 hay về sự tồn tại của một thứ gọi là chân tâm bản tính hay không, hoặc giúp chúng ta nhận ra được các quy luật vận hành trong tự nhiên như giáo lý Duyên khởi một cách rõ ràng và chính xác hơn hay không? Như ta thấy, Phật giáo chủ yếu chú ý vào mặt tâm thức vô hình, nên các quy luật hoạt động của nó diễn ra như thế  nào chỉ có bậc khai ngộ mới thấy được một cách rõ ràng mà thôi, còn kẻ phàm phu thì rất mơ hồ về điều đó, chính vì thế trong giới Phật học tồn tại hiện tượng là cùng một khái niệm, một định nghĩa mà có nhiều cách lý giải khác nhau, như Bát chính đạo hay giáo lý Duyên khởi có một số diễn giải không có được sự thống nhất, dẫn tới sự mơ hồ không được rõ ràng, hoặc có những quan điểm, lập trường thiếu sự nhất quán và đồng bộ với nhau dẫn tới bài bác nhau, như giữa Tiểu thừa và Đại thừa hoặc như giữa Thiền tông và Tịnh độ. Có nghĩa là việc lý giải những giáo lý hay các khái niệm trong kinh Phật đối với những kẻ phàm phu chúng ta rất khó có sự rõ ràng và chính xác. Ngược lại với Phật giáo, khoa học lại chủ yếu chú ý vào mặt vật chất và khoa học đã giúp con người thấy được các quy luật hoạt động trong tự nhiên một cách khá rõ ràng và tường tận. Đó là lý do tại sao người thời nay lại tin tưởng vào khoa học đến như vậy. Và rất may quy luật hoạt động của thế giới vật chất và của thế giới tâm thức luôn có sự tương đồng với nhau. Nên nếu biết vận dụng kiến thức khoa học vào Phật giáo thì chúng ta có thể bổ túc phần lý giải đối với mặt tâm thức cho hàng phàm phu tục tử chúng ta một cách toàn diện và chính xác hơn. Kiến thức khoa học có giá trị rất lớn đối với yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất của người học Phật, đó là phải  như lý tác ý, nghĩa là phải có chánh tri chánh kiến đối với các quy luật vận hành trong tự nhiên, đặc biệt là về mặt tâm thức, vì vấn đề hạnh phúc hay khổ đau chủ yếu phụ thuộc vào mặt tâm thức là chính. Còn nếu như chỉ biết tới kiến thức khoa học mà không biết cách ứng dụng để làm rõ cho những giáo lý và các khái niệm trong kinh Phật, thì nó chỉ mới giúp ta có được chính tri Chính kiến về mặt vật lý, như vậy chỉ có thể giúp nhân loại có một đời sống vật chất thoải mái hơn chứ không giải quyết được vấn đề khổ đau của con người, thậm chí còn gây ra nhiều vấn nạn khác mà thế giới hiện nay đang phải đối diện. Và ngược lại, nếu chỉ có sự mến mộ, kính ngưỡng đối với lời Phật dạy về các khái niệm, các mô tả về các quy luật vận hành của nội tâm mà không có một sự lý giải rõ ràng thì rất dễ sinh ra cuồng tín hay mê tín, như thế sẽ không đủ niềm tin chân chính để vượt qua những cám dỗ trong thời đại dục vọng lên ngôi như hiện nay. Cuồng tín là chúng ta để đức tin của mình vượt qua cả lý trí, nghĩa là một khi đã đặt niềm tin vào một phương pháp tu tập nào đó, thì cho dù có gặp bất cứ khó khăn, trở ngại gì cũng không chịu nhìn nhận lại xem nó có hợp lý hay không, có khả quan hay không, mà vẫn cứ bám vào cái pháp tu tập đó tới cùng. Ngược lại, nếu chúng ta có niềm tin vào các  hiện tượng siêu nhiên, vào các năng lực phi thường như của thần linh, hay của chư Phật, Bồ tát rồi đâm ra ỷ lại, không chịu cố gắng, nỗ lực để hoàn thiện bản thân, không chịu học hỏi phấn đấu, chỉ biết cầu xin ơn trên ban phép màu để thỏa mãn những nhu cầu dục vọng của mình, thì đây gọi là mê tín. Hai xu hướng thiên lệch này không chỉ ở thời này mới có, mà từ thời đức Phật cũng đã rất phổ biến, như việc đức Phật cảm thấy pháp tu khổ hạnh không thể dẫn tới kết quả như mình mong muốn nên lúc đó Ngài quyết định từ bỏ và đã bị năm anh em Kiều Trần Như có ý xem thường, cho rằng Ngài đã lui sụt, đã thoái chuyển. Vì vậy mà ngay khi thành đạo, đức Phật liền đi tới chỗ năm anh em Kiều Trần Như và thuyết giảng về Tứ thánh đế và về con đường trung đạo. Con đường trung đạo này cũng chính là con đường Bát chính đạo, là phải đi vào từ Chính kiến và Chính tư duy, phải có nhân sinh quan, thế giới quan chính xác rồi sau đó mới nói tới vấn đề nỗ lực, tinh tấn, lúc đó may ra mới có kết quả được. Ngược lại một nhận thức còn sai lệch, với một thế giới quan còn chưa chính xác thì dù có nỗ lực hết mình, tu hành ép xác tới cùng cực thì vẫn không thể khai ngộ và giải thoát được. Như ta thấy, vào lúc thái tử Tất Đạt Đa còn đi tầm đạo thì đã xuất hiện hai thái cực là mê tín và cuồng tín. Còn khi đạo Phật xuất hiện và tồn tại hơn hai ngàn năm thì trong nội bộ Phật giáo, lại xuất hiện hai loại thái cực khác nữa đó là giữa Tiểu thừa và Đại thừa, giữa Thiền tông và Tịnh độ.Cả hai thái cực này tới nay vẫn còn có nhiều chống trái lẫn nhau, vẫn chưa dung thông được với nhau. Nên hiện nay chúng ta cần phải tìm ra được con đường trung đạo để làm sao có thể dung thông và hợp nhất hai thái cực này lại, đó mới là con đường chính xác mà đức Phật muốn chỉ dạy. Với nền tri thức của nhân loại như vào thời đại @ hiện nay liệu có thể giúp chúng ta tìm ra được con đường đó? Xin mời quý độc giả cùng chúng tôi khám phá ra con đường mới này. Tuy là mới nhưng thật ra nó đều không nằm ngoài kinh điển. Cũng có thể nói rằng đó cũng chính là con đường mà hiện tại, quá khứ và vị lai nơi trăm nghìn muôn ức na-do-tha quốc độ khắp mười phương, các đức Phật Chính-đẳng-giác không vị nào không đề cập tới  
Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời (Tái Bản) ------------   Suối nguồn phát sinh của đạo Phật là một sự giác ngộ về sự thật của cuộc đời (Tứ diệu đế), vì vậy đạo Phật
**Ma-ha-ca-diếp** (, tiếng Pali: Mahakassapa) còn gọi là Tôn giả Ca Diếp hay **Đại Ca Diếp** là một người Bà la môn xứ Ma Kiệt Đà, cha tên Ẩm Trạch, mẹ tên Hương Chí. Ông
**Động vật trong Phật giáo** chỉ về quan niệm của Phật giáo về các loài động vật, trong đó có lý thuyết về bảo vệ quyền của động vật thông qua quan niệm "_Chúng sinh
Suối nguồn phát sinh của đạo Phật là một sự giác ngộ về sự thật của cuộc đời (Tứ diệu đế), vì vậy đạo Phật có tính cách vượt lên trên cuộc đời. Sự vượt
**_Harry Potter và Hoàng tử lai_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Harry Potter and the Half-Blood Prince_**) là một bộ phim giả tưởng năm 2009 của đạo diễn David Yates và được phát hành bởi Warner